Page 70 - Tác Động Của Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
P. 70
chuyển đổi, nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có
đủ điều kiện thuận lợi để đón nhận các dòng đầu tư này.
Đây là những lý do khiến FDI vào Việt Nam tăng mạnh
trong giai đoạn này.
- Giai đoạn suy giảm 1997-2003
Trong giai đoạn này mặc dù số lượng dự án vẫn giữ
được xu hướng tăng nhưng số vốn đăng ký hằng năm bắt
đầu giảm, sự “bùng nổ” của giai đoạn trước không còn tiếp
diễn nữa (xem hình 2.1). Trong thòi gian 7 năm (1997-2003)
có 3.506 dự án được cấp phép nhưng tổng vốh đăng ký thì
còn thấp hơn 6 năm của thòi kỳ trước đó, chỉ đạt 25.428
triệu USD, trong đó 17.922 triệu USD được giải ngân.
Ngoài lượng vốh đăng ký có xu hưống giảm dần thì quy
mô trung bình của một dự án cũng giảm mạnh, chỉ bằng
1/3 giai đoạn trước. Cụ thể, trong năm 2003, quy mô trung
bình của một dự án chỉ còn 2,6 triệu USD. Sự suy giảm
này có thể bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: (i) Với
chính sách mở cửa hội nhập quốc tế và thu hút đầu tư
nưốc ngoài bắt đầu từ năm 1986 của Việt Nam, nhiều rào
cản đốì với hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã được
gõ bỏ, các doanh nghiệp muốh nhảy vào Việt Nam nay đã
có mặt\ Kết quả là, sau thòi kỳ FDI bùng nổ ở giai đoạn
đầu của đổi mới, những lĩnh vực có khả năng mang lại lợi
nhuận cao đã đưỢc các nhà đầu tư nước ngoài nhảy vào
1. Theo Henrik (2005), dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam đã
vượt mức 11% GDP vào nàm 1997, đây là mức rất cao nếu so vói các
nước đang phát triển khác.
69