Page 75 - Tác Động Của Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
P. 75
một khung khổ pháp lý ngày càng thân thiện vối hoạt
động đầu tư nước ngoài, thu hút vô"n đầu tư bổ sung cho sự
thiếu hụt của nguồn tiết kiệm trong nước, đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Trên thực
tế, qua bốh lần sửa đổi Luật đầu tư và hàng trăm nghị
định, quyết định được ban hành đã tạo ra một hành lang
pháp lý ngày càng hoàn thiện cho hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nưốc ngoài. Tuy nhiên, dòng vốn FDI
chảy vào Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm
khác nhau. Sau giai đoạn đầu phát triển mạnh và được coi
là làn sóng đầu tư thứ nhất vào Việt Nam, FDI bắt đầu
giảm từ năm 1997. Phải đến năm 2004 cho đến khi Việt
Nam gia nhập WTO đầu tư nưốc ngoài mới tăng trở lại
nhưng sau khi đạt mức kỷ lục vào năm 2008 thì từ đó đến
nay FDI lại có dấu hiệu chững lại và suy giảm. Nhìn tổng
quát, mỗi khi Việt Nam có sự thay đổi về Luật đầu tư hoặc
có bước tiến về cải cách nền kinh tế trong nước thì FDI lại
chảy mạnh vào Việt Nam, nhưng dòng vốn này cũng
thường nhanh chóng đạt mức bão hòa và suy giảm sau đó.
2. Thu hút vốn FDI theo vùng lãnh thổ
Về mặt lý thuyết, để có thể diễn ra hoạt động đầu tư
nước ngoài thì cần phải đồng thời tồn tại ba lợi thế: lợi thế
do sở hữu mang lại, lợi thế về nội bộ hóa các hoạt động và
lợi thế của địa điểm đầu tư^ Trong đó, lợi thế của địa điểm
1. Xem Dunning, J.H.; "Multinational Enterprises and the
Global Economy", Addison Wesley Publishers Ltd, 1993.
74