Page 73 - Tác Động Của Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
P. 73

được cải thiện đáng kể,  lấy lại được niềm tin của các nhà
           đầu tư và đã tạo ra một làn sóng đầu tư thứ hai chảy vào
           Việt Nam sau thời kỳ  1992-1996.  Trong giai đoạn 5  năm
           này (2004-2008) có 5.869 dự án được cấp phép vối tổng số
           vốh đăng ký đạt mức  116,5 tỷ USD, trong đó 29,8 tỷ USD
           được giải ngân.  Cho đến nay năm 2008 vẫn là năm thành
           công nhất trong thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
           Chỉ riêng năm đó, Việt Nam đã cấp phép cho  1.557 dự án

           FDI với sô" vốh  đăng ký kỷ lục  gần  72  tỷ USD  và  sô" vô"n
           giải ngân cao kỷ lục, đạt mức 11,5 tỷ USD. Không chỉ tăng
           kỷ lục về sô" lượng dự án và sô" vô"n đăng ký, quy mô trung
           bình của một dự án thời kỳ này cũng tăng nhanh.  Trung
           bình cả giai đoạn thì quy mô một dự án đạt mức 19,8 triệu
           USD,  riêng năm  2008  quy  mô trung bình  một  dự  án  đạt
           mức  trên  46  triệu  USD.  Sự  tăng  nhanh  đột  biến  trong
           dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam giai đoạn này chủ yếu do
           tác động của sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
           mại thê" giới. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhìn thấy một
           Việt  Nam  hoàn  toàn  mới,  nhiều  tiềm  năng  vươn  ra  thị
           trường thê" giới chứ không chỉ bó hẹp trong thị trường Việt
           Nam. Vì vậy,  họ kỳ vọng vào tương lai khi làm  ăn ở Việt

           Nam và quyết định đổ vốn vào nền kinh tê" này.
               Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
               Đáng tiếc sau một năm  đại thành công trong thu hút
           FDI thì kể từ năm 2009 đến nay, Việt Nam bước vào một
           giai  đoạn khó khăn  mới.  Đầu tư trực tiếp nước  ngoài tuy
           vẫn duy trì ở mức cao hơn so với các giai đoạn trưốc nhưng
           lại có xu hưống giảm, nhất là sô" dự án và lượng vốn đăng


           72
   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78