Page 353 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 353
PHÒNG VÀ CHỮA CÁC BÊNH ĐAU ĐẦU
Về mặt định khu giải phẫu: có một đặc điểm đáng
lưu lý là động mạch sông, giao cảm cổ và mỏm móc nằm
sát nhau với khoảng cách hẹp nên chồi xương mỏm móc
dễ chẹn động mạch và thần kinh giao cảm cổ. Đây là
"cái nút gây bệnh" của hội chứng cổ - đầu. cần nhắc lại
rằng: chồi xương phát triển từ mỏm móc là biểu hiện
của quá trình thoái hoá sinh học trong đốt sống (phản
ứng quá sản).
Có thể nói một cách khái quát rằng: "những biến đổi
về hình dạng và chức phận của đoạn vận động cột sống cổ
mang đặc tính "góc thời tiết" (xuất hiện hay biến đi rất
nhậy cảm) biểu hiện là một yếu tố sinh bệnh chung gây
nên các rối loạn cục bộ ở cột sông, các rối loạn thần kinh
theo đoạn của rễ và của não (đại não và tiểu não).
Trên lâm sàng, bên cạnh các triệu chứng của hội
chứng cổ cục bộ, cũng có thể thấy các biểu hiện bệnh do
mạch máu và thần kinh thực vật. Khi các dấu hiệu bệnh
này chi phôi diễn biến của bệnh, người ta xác định đó là
hội chứng cổ - đầu.
Các biểu hiện theo dạng nào còn phụ thuộc vào tư thế
của cột sông cổ và đầu (tính chất đau phụ thuộc tư th ế).
Có thê đau đầu thành cơn (trước đây gọi nhầm là
Migraine cổ), nuốt khó (hội chứng cổ - đầu - thực quản),
cơn chóng mặt, ám điểm lấp lánh hoặc ù tai, đơn lẻ hoặc
phôi hợp cùng xuất hiện.
Trong điều kiện bình thường, tốc độ dòng máu chảy
qua động mạch sông cũng đã chịu phụ thuộc vào tư thế
vận động của đầu rồi, ví dụ khi nghiêng hay xoay đầu thì
ông dẫn mạch máu (ông dẫn này do các lỗ liên đốt sông cổ
hình thành) bị hẹp lại rõ rệt. Nếu khoảng trông dự trữ
của ông dẫn động mạch sông đó lại bị chồi xương do thoái
hoá choán chỗ, tất nhiên động mạch sông chạy qua đó rất
dễ bị chèn ép hoặc "bị chẹn". Do đó lưu lượng dòng máu
từ tim đưa lên nuôi dưỡng bởi động mạch sông sẽ bị giảm,
353