Page 48 - Phát Hiện Và Điều Trị Bệnh Xơ Vữa Động Mạch
P. 48
'ĩtn,'
—ii'ij
ngăn ngừa tái hẹp sau khi nong động mạch vành thành
công vẫn là một vấn đề thử thách quan trọng nhất trong
điều trị bệnh xơ vữa động mạch vành. Từ năm 1986,
việc đưa stent vào lâm sàng đã cải thiện rõ rệt kết quả
ngắn và dài hạn của thủ thuật tái thông mạch máu can
thiệp. 8 năm sau đó, 2 thử nghiệm ngẫu nhiên xác minh
rằng, đặt stent sau thủ thuật nong động mạch vành
thực sự làm giảm tỷ lệ tái hẹp. Mặc dù hạ thấp tỷ lệ tái
hẹp khi đặt stent và giảm tỷ lệ biến chứng ban đầu,
nhưng tái hẹp vẫn xảy ra gần 15 - 20% trong vòng 6
tháng sau can thiệp có thể cần thiết tái thông lại.
Cơ chế sinh học tế bào tiếp theo sau nong động mạch
vành bằng bóng chỉ đưỢc hiểu một phần. Tái hẹp sau
nong có nhiều yếu tô" bệnh sinh liên quan đến yếu tô" cơ
học và cầm máu cũng như tăng sinh tê" bào.
Thêm vào trong việc can thiệp cơ học, cách tiếp
cận dưỢc học là làm giảm tỷ lệ tái hẹp đã được đánh
giá. Việc đưa vào sử dụng thuốc ức chế HMG-CoA
reductase (statins) đã làm cải thiện rõ rệt trong ngăn
ngừa tiên phát và thứ phát bệnh xơ vữa động mạch
vành. Các nghiên cứu đầu tiên cho thấy rằng, statins
có thể có hiệu quả trong giảm nguy cơ tái hẹp sau
nong bằng cách giảm nồng độ lipid hoặc qua cơ chế
độc lập vối giảm LDL.
Nghiên cứu thực nghiệm
Vào đầu những năm 1990, các nghiên cứu thực
nghiệm gỢi ý rằng statins có thể giảm tái hẹp sau nong
động mạch vành bằng bóng. Các chuyên gia đã chọn