Page 106 - Bài Văn Mẫu
P. 106

Năm  1943,  Tô  Hoài tham  gia  Hội  Văn  hoá  cứu  quốc. Trong  kháng chiến
    chống thực dân  Pháp, ông viết báo và  hoạt động văn  nghệ  ở Việt Bắc. Sau
     hơn  bảy  mươi  năm  miệt  mài  lao  động  nghệ  thuật,  Tô  Hoài  đã  sáng  tác  và
    xuất bản gần 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu
    thuyết,  kí, tự truyện, tiểu  luận và  kinh  nghiệm sáng tác...  Do có trình độ  hiểu
     biết sâu  rộng và vốn sống phong phú  về  phong tục, tập quán của nhiều dân
    tộc  ở  nhiều  vùng  miền  khác  nhau  trên  đất nước  nên  sáng  tác  của Tô  Hoài
    thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn
     hấp dẫn  người  đọc  bài  lối  kể  chuyện  hóm  hỉnh,  sinh  động,  bởi vốn  từ vựng
     giàu có  lạ  thường.  Năm  1996, Tô  Hoài được  Nhà  nước tặng  Giải thưởng  Hồ
     Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

       Tác phẩm chính:  Dế Mèn phiêu lưu kí,  (truyện cho thiếu nhi,  1941), o chuột
     (tập truyện, 1942),  Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn,
     1944),  Truyện  Tây Bắc (tập truyện,  1953),  Miền  Tây (tiểu  thuyết,  1967),  Cát
     bụi chân  ai (hồi  kí,  1992),  Chiều  chiều (tự truyện,  1999),  Ba  người khác (tiểu
    thuyết, 2006)...
       Truyện  ngắn  Vợ chồng A  Phủ sáng tác năm  1952,  in trong tập  Truyện  Tây
     Bắc (1953), được tặng giải  Nhất - giải thưởng  Hội Văn  nghệ  Việt Nam  1954 -
     1955.  Vợ chồng A  Phủ là truyện  ngắn  đặc sắc có sức lôi cuốn, hấp dẫn thực
     sự bởi giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận Mị và A Phủ,
     nhà  văn  đã  dựng  lại  quãng  đời  đau  khổ,  tối  tăm  của  người  dân  miền  núi và
     phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.
       Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ.
     Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ vì dám đánh A
     Sử,  con  trai thống  lí nên  bị  phạt vạ  làm  đầy tớ  không  công.  Cùng  cảnh  ngộ
     đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng
     Sa,  thành vợ  thành  chồng, cùng  nhau  xây dựng  cuộc đời  mới.  Được cán  bộ
     cách mạng giác ngộ,  Mị và A Phủ tham gia lực lượng du  kích bảo vệ  khu giải
     phóng.

        Dưới thời thực dân phong kiến, bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức
     làm  mưa  làm  gió.  Chúng nắm  trong tay  mọi  quyền  lực,  tự cho  rằng  mình  có
     quyền sinh,  quyền sát nên coi tính  mạng  người dân  như cỏ  rác.  Cha con tên
     thống  lí  Pá  Tra  với  tính  cách  bạo  ngược  và  lối  sống  phè  phỡn  trên  mồ  hôi
     nước mắt người  nghèo tiêu  biểu cho giai cấp thống trị ở  miền  núi.  Cũng  như



                                                                          105
   101   102   103   104   105   106   107   108   109   110   111