Page 105 - Bài Văn Mẫu
P. 105

‘í ’ "

      cấu kết với thần quyền, với tập tục mê tín dj đoan  làm cho họ không cất dầu dậy nổi.
      Nhưng có áp bức là có đấu tranh. Mị và A Phủ  cũng như bao người khác sẽ vùng lên
      tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn dời sau của vỢ chồng A Phủ chứng
      minh quy luật muôn đời ấy.
         ■I- Trong giá tr| hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá tri nhãn đạo sâu xa :
          - TỐ cáo sự tàn bạo của bọn lang đạo, chúa đất (tiêu biểu là cha con thống lí Pá
      Tra);  bênh vực và cảm thông sâu sắc với những con  người có số phận bất hạnh  như
      Mị, A Phủ; trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của đồng bào
      miền  núi;  đổng  tinh  với  tinh thần  phản  kháng,  đấu  tranh  và  vạch  ra con  dường  giải
      phóng cho họ.
          - Thành công cơ bản của truyện ngắn  Vợ chồng A  Phủ là ở nghệ thuật xây dựng
      nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật M| và A Phủ
      đều thể hiện một cách sống động, chân thực những nét tính cách của người Mông nói
      riêng và người dân miền núi nói chung: mộc mạc, phóng khoáng, tự do...
          - Tô  Hoài vốn là  nhà văn có biệt tài miêu tả thiên  nhiên và  phong tục, tập quán
      xã  hội. Những đoạn văn đặc sắc giống như những bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên
      Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, vể con người Tây Bắc với những nét độc đáo...
          - Nghệ thuật kể chuyện của tác giả uyển chuyển, linh hoạt, cốt truyện được trình
      bày theo trình  tự thời  gian, tuy vậy có  những  lúc đan  xen,  pha trộn quá  khứ với  hiện
      tại một cách rất tự nhiên, hợp lí.
         3.  Kết bài:
          - Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A  Phủ,  nhà văn Tô  Hoài đã
      làm  sống  lại trước  mắt người đọc quãng đời tăm tối,  cơ cực của người dân  miển núi
      dưới ách thống trị tàn bạo của bọn quan lại, chúa đất phong kiến và thực dân Pháp.
          - Đổng thời, tác giả khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng được con người
      ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô  lệ. Đó chính  là giá trị hiện thực và nhân dạo to lớn của tác
      phẩm, giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian.

      II.  BÀI LÀM
         TÔ  Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm  1920 trong một gia đình thợ dệt
      thủ  công  ở  làng  Nghĩa Đô,  phủ  Hoài Đức,  tỉnh  Hà  Đông  (quê  ngoại),  nay  là
      phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Quê nội của ông ở Kim Bài, huyện
      Thanh Oai, tỉnh  Hà Đông  (cũ). Thời trai trẻ,  ông phải vất vả  kiếm  sống  bằng
      nhiều  nghề  như dạy kèm,  thợ thủ  công,  bán  hàng,  làm  kế toán  hiệu  buôn...
      Vốn  có  năng  khiếu  văn  chương  nên  Tô  Hoài  sáng  tác  rất sớm  và  được  dư
      luận  chú  ý  ngay  từ  những  tác  phẩm  đầu  tay,  nhất  là  cuốn  truyện  viết  cho

      thiếu nhi Dế Mèn phiêu lưu kí.


       104
   100   101   102   103   104   105   106   107   108   109   110