Page 195 - Những bài Làm Văn 12
P. 195
thầm lặng cho cách mạng, cho kháng chiến. Những câu thđ nói về nhân dân
Tây Bắc biểu lộ lòng biết ơn, sự gắn bó chân thành và niềm xúc động thấm
thìa của nhà thơ. Mỗi con đường, mỗi bản làng, mỗi ngọn núi, dòng sông đều
gắn với những kĩ niệm vui buồn không thể nào quên.
Đang từ dòng hồi tưởng về những kỉ niệm khó quên, nhà thơ đã nâng cao
và khái quát cảm xúc lên thành một triết lí nhân sinh sâu sắc. Khổ thơ dưới
đây như một phát hiện về quy luật của tình cảm đời sống tâm hồn con người;
, Nhớ bản sương giảng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại ơhẳng yêu thương ?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Tình thương yêu ở đây không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa mà còn là
những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước. Nhà thơ đã nói tới
phép màu của tình yêu. Chính tình yêu đã biến những miền đất xa lạ thành
thân thiết như chính quê hương của mình, hoá thành máu thịt tâm hồn mình:
Khi ta ở chỉ /á nơi đất ở, Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn I Triết lí được rút ra từ
tình cảm, cảm xúc chân thành, cho nên không khô khan mà vẫn tự nhiên,
dung dị.
ở khổ thơ tiếp theo, mạch thơ đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy
tưởng khác về tình yêu và đất lạ:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tinh yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Nói đến tình yêu, nỗi nhớ, Chế Lan Viên có cách so sánh thật độc đáo và
thú vị. Nỗi nhớ trong tình yêu, giữa anh-với em là tất yếu, giống như quy luật
của đất trời: đông về nhớ rét. Còn tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng - một
đặc sản của núi rừng Tây Bắc và đẹp như sắc biếc lông chim lúc xuân sang.
Tác giả đã cụ thể hoá khái niệm trừu tượng là tình yêu thành những hình ảnh
gần gũi, quen thuộc với con người, nhất là người miền núi.
Đoạn thơ thứ ba mang âm hưởng của khúc hát lên đường háo hức, dồn
dập và lôi cuốn. Chất trữ tình bay bổng, lãng mạn kết hợp với giọng điệu sôi
194