Page 53 - Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam
P. 53

Chợ núi cỏ gốc cây đề,




                                                                              Có nghề canh cửi có nghề làm hương.





                                                       Hay là:






                                                                              Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,





                                                                              Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông.





                                                                              Và còn rất nhiều:





                                                                             Quạt Man Xá khi nồng hây hẩy\





                                                                             Rập lửa nồng đem lại gió thanh












                                                                             Quay tơ ra mắc ra mành,





                                                                             Mắc là sợi dọc mành là sợi ngang.




                                                                             Mốt son anh dệt đầu hàng,





                                                                             Mốt cục đem bán cho nàng kẻ Đơ...





                                                                             Muốn ăn cơm trắng cá mè,





                                                                             Muốn đội nón tốt thì vẻ ỉàng Chuông...





                                                       Chỉ  riêng  về  nón,  nghề  này  đã  rất  đa  dạng  và phong




                                              phú.  Từ đời  Trần  ở  làng Ma Lôi  (thuộc tỉnh  Hải  Dương




                                              cũ) có làm loại nón bằng trúc thanh bì gọi là nón Ma Lôi.




                                             Nghề  làm  nón  rất  phát triển.  Thời  ấy  gia  nhân  của Trần




                                              Khánh Dư buôn loại nón này, thu lãi được hàng ngàn tấm



                                              vải ( Trần Quốc Vượng, Hà Vàn Tấn - lịch sử chế độ phong





                                              kiến  tập I,  NXB giảo dục,  Hà Nội -  ỉ 960,  tr 337). Trong



                                              “Vũ trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ mô tả, vào cuối thế kỷ




                                               18 ở Việt Nam đã có rất nhiều loại nón. Ở Sơn Tây có nón




                                              mền giải (hay còn gọi  là nón Tam Giang) dành riêng cho











                                                                                                                                                                                                                   57
   48   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58