Page 51 - Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam
P. 51
Họ lịch lãm và mẫn cảm không chi trong đời sống chính
trị - xã hội, mà cả trong mọi mặt văn hóa tinh thần. Điều
này khiến các làng nghề ven đô cũng như cả nước đều
phải tự vươn lên để có những sản phẩm khéo nhất, tinh
xảo nhất, những đặc sản riêng của nghề mình, làng mình,
cung cấp cho nhu cầu xã hội nói chung và đồ thị nói riêng.
Đây là động lực quan trọng làm cho nghề nghiệp ngày một
tiến triển. Rồi các “quan xưởng”,“bách íác cục”, nhà nước
phong kiến trưng tập thợ giỏi ở các nơi vào đó để sản xuất
những vật dụng cần thiết như đúc bạc ở Đông Tác thế kỷ
15, đúc tiền ở phường Ngũ Xã thế kỷ 18, sở nuôi tằm ươm
tơ thời Lý Trần. Thư tịch cũ cho biết: Đầu thế kỷ 11 cho
đến đời vua Lý Thái Tông số vải lụa trong cả nước nhiều
đến mức không chỉ dùng để may mặc, trang trí mà còn
thay tiền tệ để nộp thuế hoặc trao đổi mua bán hàng hóa.
Nhà nước lập ra “quyến khố ty” để thu mua sản phẩm của
dân. Nhà vua còn gọi thợ giỏi địa phương lên kinh đô huấn
luyện cho cung nữ nghề dệt để mở rộng việc dệt gấm vóc.
“Ẩy là để tỏ ra rằng không cần mặc gấm vóc của nước
Tống nữa”. Đến năm 1156 vua Lý Anh Tông còn tặng triều
đình Tống Cao Tông 850 tấm đoạn màu vàng thẫm có hoa
rồng cuốn và nhiều báu vật khác... Qua đây thấy rằng ở
một khía cạnh nào đó những việc trên đã tạo đà cho các
nghề thủ công phát triển. Ngược lại, một khi mà các bà cô
không còn đội nón 3 tầm với quai thao duyên dáng thướt
tha thì nghề dệt thao Triều Khúc cũng không còn. Khi các
nho sĩ, sư sãi không đề thơ, viết kinh trên giấy hội, thì các
55