Page 33 - Một Số Phong Tục Tập Quán
P. 33
làm năm Mão (mèo) thì người Chăm gọi là năm
Ta-pai (thỏ). Với ngưòi Việt, khi ghép Thiên Can với
Địa Chi để thành tên năm thì xếp Địa Chi đứng
trước, Thiên Can đứng sau như: Canh Dần, Nhâm
Thìn, Đinh Tỵ... Với người Chăm thì ngược lại, để
thành tên năm, Địa Chi bao giò cũng đứng trước
Thiên Can như: Ta-kuh Liêh, Ka-bao Hăk, Kra Liêh...
Vì sô' lưọng Thiên Can và Địa Chi không bằng nhau,
hết 8 Thiên Can rồi mà Địa Chi vẫn còn 4 thì Địa
Chi thứ 9 lại ghép vói Thiên Can 1 (vòng 2).
Chính vì Thiên Can trong lịch Chăm chỉ có đên 8
mà Địa Chi 12 nên cứ 24 năm lại có sự lặp lại năm
trùng khớp cả Thiên Can với Địa Chi. Tính theo
cách khác, năm nào cũng là năm trùng khớp với 24
năm trước đó. Theo phép toán thì 24 là bội sô'
chung nhỏ nhất của 8 và 12. Với âm lịch của người
Việt thì 60 năm mới có sự lặp lại trùng khóp này
bởi 60 là bội sô' chung nhỏ nhất của 10 Thiên Can
và 12 Địa Chi. Người Chăm cũng quan niệm có
"năm tuổi" (năm hạn) như người Việt. Cũng có "tứ
hành xung". Những năm xung với nhau là: (1) Tý,
Ngọ, Mão, Dậu; (2) Thin, Tuất, Sửu, Mùi; (3) Dần,
Thân, Tị, Hợi.
Lịch Chăm cũng có năm nhuận. Nếu như âm
lịch có chu kỳ 19 năm có 7 năm nhuận, thì lịch
Chăm cứ 8 nàm (tính theo Thiên Can) có 3 năm
nhuận. Năm nhuận là năm có 13 tháng. Tháng
nhuận bao giò cũng rơi vào tháng thứ 13. Tháng
này có tên là Bỉ-lan Bhang (tháng mùa hạ). Người
Chăm tính toán rất cẩn thận, tháng Bi-lan Bhang
luôn luôn là tháng thiếu. Người Chăm không bao
giờ lấy tháng đủ ngày làm tháng nhuận.
32