Page 32 - Một Số Phong Tục Tập Quán
P. 32

trong  tuần  của  lịch  Chăm  chỉ  là  tên  gọi  thông
   thường không có nghĩa từ vựng,  nhưng cũng không
   liên quan tói từ chỉ số. Theo lịch pháp Chăm, thứ (sô"
   lượng chỉ  ngày trong tuần)  là  rất  quan  trọng trong
   việc  lựa  chọn  ngày  tốt  ngày  xấu.  Ví  dụ:  ngày  10
   (ngày chẵn, hạ tuần) rơi vào thứ sáu thì đại cát (rất
   tốt), nếu rơi vào ngày thứ tư thì tốt vừa, nếu rơi vào
   ngày thứ hai hay  thứ ba  thì  là đại  hung  (rất xấu).
   Như vậy,  để tìm  ra  ngày tốt  để  làm  một việc  quan
   trọng nào  đó,  người  Chăm  phải "căn chỉnh"  rất cẩn
   thận để đưỢc cả tháng, được cả phần trong tháng (hạ
   tuần  hay  thượng  tuần),  được  cả  thứ  và  cả  ngày.
   Người  nào  không  có  kinh  nghiệm,  hoặc  đường  học
   vấn  sơ  sài  thì  không  sao  tính  được.  Với  các  ngày
   trong tuần,  người  Chăm  coi  ngày  thứ  năm  là  ngày
   nhập. Đã nhập thì không thể xuất. Nếu ai muốh xin,
   vay hay đòi nỢ người Chăm mà đến vào thứ năm thì
   bao giờ cũng nhận được lời từ chốĩ khéo.

       Lịch  Chăm  cũng có  Thiên  Can  và  Địa  Chi  như
   âm  lịch  của  người  Việt.  Tên  năm  được  ghép  một
   Thiên Can với một Địa Chi. Nhưng Thiên Can Chăm
   chỉ có đến 8,  gọi theo tên  Chăm là: Liêh, Hak,  Jim,
   Jưi,  Dal,  Bawk,  Wao  và Jim  (từ  đồng  âm  với  1  từ
   Địa  Chi  đứng trưốc).  Trong  khi Thiên  Can của  âm
   lịch  có  đến  10  là:  Giáp,  Ảt,  Bính,  Đinh,  Mậu,  Kỷ,
   Canh, Tăn, Nhâm, Quý.  Còn Địa Chi trong lịch Chăm
   cũng  có  sô" lượng  12  như  âm  lịch  của  người  Việt.
   Người  Chăm  gọi  Địa  Chi bằng  tên  chỉ  các  con  vật:
   Ta-kuh  (chuột), Ka-bao  (trâu), Ri-mong (hổ),  Ta-pai
   (thỏ),  Inư-gi-rai  (rồng),  U-la-aneh  (rắn),  A-theh
   (ngựa),  Pa-be  (dê),  Kra  (khỉ),  Mư-nuk  (gà),  A-thău
   (chó), Pa-bui  Gợn).  Như vậy, năm mà người Việt gọi



                                                          31
   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37