Page 89 - Lý Thường Kiệt
P. 89

LÝ THƯỜNG KIỆT


              Sứ ta vào nước Tống hoặc bằng đường Khâm Châu, hoặc bằng đường
          Vĩnh Bình. Mỗi lúc đem voi cống thì đi đường Vĩnh Bình. Quan Tống, Chu
          Khứ Phi, còn cho ta biết một vài chi tiết về việc cống.
             Trước  lúc  sứ ta tới biên giới, có phái bộ  tới  trước xin phép  cho  sứ tới
          kinh (ở gần Khai Phong ngày nay). Phải có trả lời của triều đình Tống ưng
          thuận mới được đi. Mỗi phái bộ ta gồm có đến năm mươi người, có lúc đến
          trăm người. Nhưng số người được đến kinh cũng phải tùy Tống chấp nhận.
              Ngoài các tê, tượng, những cống vật thường rất quý. Sau lúc Tống đã
          phải dời kinh xuống phía nam, vua Lý vẫn cống tiến rất hậu. Năm 1156, Lý
          Quốc đem cống đồ kim khí nặng hơn 1.200 cân, nạm châu báu nặng phần
          nửa. Lại thêm 100 hạt trân châu đựng trong bình vàng (3 hạt lớn như quả
          cà, 6 hạt lớn như hạt mít, 24 hạt lớn như hạt đào, 17 hạt lớn như hạt mận và
          50 hạt lớn như hạt táo). Lại thêm  1.000 cân hương trầm, 50 đôi lông thúy,
          850 tấm đoạn màu vàng thắm, hoa rồng cuốn, 6 ngựa vua cưỡi đủ cả yên
          cương, 8 ngựa thường, 5 voi. Phái bộ gồm có 100 người. (LNĐĐ 2).
              Xem đó biết đời Lý, nước ta giàu biết là bao nhiêu. Những lần khác, tuy
          cống lễ không hậu như trên, nhưng các đồ vàng, bạc, ngà và hương trầm,
          cũng trị giá đến vài ba vạn quan. Muốn biết giá trị một lễ như vậy, ta có thể
          so  sánh  với  tiền ban  cho  các  nhân  viên  phái  bộ  dọc  đường,  mỗi  ngày  10
          đồng tiền ngoài gạo!

              Sứ bộ được ưu đãi dọc đường và lúc tới kinh, vua Tống ân cần phủ dụ.
              Sứ thần được chọn trong các hàng quan cao cấp biết ứng đối, biết làm
          thơ. Khứ Phi còn ghi một câu thơ của Lý Bang Chính. Sau khi vua Tống đổi
          tên nước Giao Chỉ ra nước An Nam (1174), Bang Chính về; dọc đường có đề
          thơ ở một bưu đình. Trong thơ có câu "Thử khứ ưu  thành  tứ quốc danh"  (Đi
          lần này thành công lớn là được ban tên nước).
              Đáp lễ lại, vua Tống ít sai sứ đến Thăng Long. Chỉ lúc ở nước ta, có quốc
          tang và tự quân lên ngôi, vua Tống thường sai một viên quan ở Quảng Tây
          tới điếu  ai và  phong vua mới:  như năm  1029, viên chuyển vận sứ Quảng
          Tây Vương Duy Chính (TS và TB  107)  tới tế Lý Thái Tổ và phong Lý Đức
          Chính (Thái Tông); năm 1055, viên chuyển vận sứ Quảng Tây Tô Yên Thế


                                            96
   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94