Page 395 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 395

giờ vào lớp và tan trƣờng của học sinh, giờ khám bệnh và điều

        trị trong bệnh viện, giờ khởi hành của những phƣơng tiện giao

        thông và cả giờ giải trí, nghỉ ngơi... Hầu nhƣ công việc nào cũng

        có những giờ hay những mùa cao điểm của nó nên sự phân bố


        thời gian trong nhà máy, trƣờng học, công sở... là điều bắt buộc.

        Lâu dần phong cách làm việc khẩn trƣơng, đúng hẹn, chính xác

        trở  thành  thói  quen  trong  nếp  sống  của  cƣ  dân  xã  hội  công


        nghiệp. Nó trái ngƣợc với cách lao động và sinh hoạt lề mề, sai

        hẹn và đại khái đƣợc tạo nên bởi tốc độ chậm chạp và điều kiện

        phân tán của nền sản xuất nông nghiệp lâu đời.


               Ba là, sự thay đổi về dân số. Có thể lấy những số liệu sau

        đây để minh chứng cho tốc độ tăng dân số quá nhanh ở những

        xứ sở bƣớc vào thời đại công nghiệp hóa.


                       Riêng nước Anh, tỉ lệ tăng dân số năm 1720 là 1%, năm

               1750 là 4% và đến năm 1800 là 10%.

                       Dân số toàn châu Âu  năm 1650 là 100 triệu, một thế kỉ


               sau là 170 triệu và đến năm 1800 đã vượt quá 200 triệu.

               Cũng theo tốc độ ấy, các thành phố đƣợc mở rộng, số dân

        thành thị tăng lên.

                       Luân Đôn năm 1750 có 515 ngàn dân, năm 1801 tăng


               lên 900 ngàn.

                       Pari  trước  cách  mạng  cũng  lên  tới  600  -  700  ngàn

               người.


               Bộ mặt phố xá, bến cảng, nhà ga, cửa hàng... đều đổi thay,

        nhộn nhịp và sầm uất.

               Trƣớc sự  bùng  nổ  dân  số  nhƣ  vậy, nhà  xã  hội  học ngƣời

        Anh Rôbớt Mantuyt (Robert Malthus) đã tỏ ra lo ngại khi tính


        toán rằng cứ 25 năm, dân số nƣớc Anh, Pháp, Mỹ lại tăng gấp

        đôi trong khi sản phẩm nông nghiệp không tăng tƣơng ứng thì sẽ
   390   391   392   393   394   395   396   397   398   399   400