Page 271 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 271
Nin, phía Tây là Tây Ban Nha, phía Đông là Trung Quốc, thời
bấy giờ bản đồ này đƣợc xem là rất chính xác.
Về y học, ngƣời đƣợc suy tôn là thủy tổ của y học phƣơng
Tây là Hipôcrát (Hippocrate, 469 - 377 TCN), một thầy thuốc
Hy Lạp quê ở đảo Cốt trên biển Êgiê. Ông đã giải phóng y học
ra khỏi mê tín dị đoan, cho rằng bệnh tật do ngoại cảnh gây nên,
vì vậy phải dùng các biện pháp nhƣ cho uống thuốc hoặc mổ xẻ
để chữa trị. Ông nói: "Thuốc không chữa đƣợc thì dùng sắt mà
chữa, sắt không chữa đƣợc thì dùng lửa mà chữa, lửa không
chữa đƣợc thì không thể nào chữa đƣợc nữa".
Thời Hy Lạp hóa, vua Philađenphơ (309 - 246 TCN) thuộc
vƣơng triều Plôtêmê ở Ai Cập là một ngƣời hay đau ốm, muốn
tìm thuốc trƣờng sinh bất lão nên đã tích cực thi hành chính sách
khuyến khích sự phát triển của y học. Ông không những đã giúp
đỡ các thầy thuốc về vật chất mà còn cho phép mổ tử thi của
phạm nhân để nghiên cứu, do đó y học đã có những thành tựu
mới. Đầu thế kỉ III TCN, nhà giải phẫu học Hêcrôpin
(Hécropile) đã chứng minh rằng não là khí quan tƣ duy, cảm
giác do hệ thần kinh truyền đạt, xem mạch mạnh yếu nhanh
chậm có thể biết đƣợc tình hình sức khỏe. Nhà phẫu thuật
Hêraclit (Héraclide) ở thành Tarentum (Ý) đã biết dùng thuốc
mê khi mổ bệnh nhân. Phát minh này sau đó bị bỏ quên đến mãi
năm 1860 mới đƣợc áp dụng lại.
Đến thời La Mã, đại biểu xuất sắc nhất về y học là Claođiút
Galênút (131 - đầu thế kỉ III) quê ở Pécgam (Tiểu Á), trên cơ sở
tiếp thu các thành tựu y học trƣớc đó, nhất là của Hipôcrát, ông
đã viết nhiều tác phẩm để lại tới sau này, trong đó có một số đến
thời trung đại đƣợc dịch thành tiếng Arập, Do thái, Latinh. Điều
đó chứng tỏ các tác phẩm của ông đến thời trung đại vẫn có uy