Page 155 - Hỏi Đáp Về Quyền Con Người
P. 155

của Tổ chức lao động quốc tể)  năm  1930;  Công ước về xóa
        bỏ  lao  động  cưỡng bức  (Công ước  sô' 105  của  Tổ chức  lao
        động quôc tể) năm 1957; Công ước về trấn áp việc buôn bán
        người và bóc lột mại dâm người khác năm  1949 (Công ước

        sô  29 của Tổ chức lao động quốc tê);  Công ước về trấn áp
        việc  buôn  bán  người  và  bóc  lột  mại  dâm  người khác  năm
         1949 của Liên hợp quôc; Nghị định thư về việc ngăn ngừa,
        phòng chô'ng và trừng trị việc buôn bán người,  đặc biệt là
        buôn  bán  phụ  nữ và  trẻ  em,  bổ sung  Công  ước  của  Liên
        hỢp quôc về chông tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm
        2000... Những điều ước này đã quy định một hệ thống biện
        pháp  khá toàn diện để ngăn chặn và xóa  bỏ chế độ nô lệ,
        những thể thức tương tự như chế độ nô lệ và việc cưỡng bức
        lao động.
            Tuy nhiên, cần chú ý là, tương tự như vấn đề chống tra

        tấn, việc chống nô lệ và các hình thức nô lệ, nô dịch đưỢc coi
        là  một quy phạm tập  quán quốc tế về nhân quyền,  do đó,
        những tiêu chuẩn  quốc tế về vấn đề này có hiệu lực ràng
        buộc với mọi quốc gia trên thế giới, bất kể việc quốc gia đó
        có là thành viên của các điều ưốc quốc tế kể trên hay không.
             Trong pháp luật Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 khẳng
        định nguyên tắc bất khả xâm phạm về thân thể,  danh dự

        và nhân phẩm (khoản  1  Điều  20),  đồng thòi  nghiêm cấm
        cưỡng bức lao  động (khoản  3  Điểu  35).  Quy định  nghiêm
        cấm cưỡng bức lao động cũng được cụ thể hóa trong khoản 3
        Điều 8 Bộ luật lao động năm 2012. Việt Nam đã  gia nhập
        Công ước về xóa bỏ lao động cưỡng bức năm 1930 (Công ưóc
        sô' 29 của Tổ chức lao động quốc tê) vào ngày 05-3-2007.


                                                                 155
   150   151   152   153   154   155   156   157   158   159   160