Page 7 - Được Học Và Thuốc Thiết Yếu
P. 7

bón...,  cũng  dùng  đế  đạt  tác  dụng  toàn  thân,  như đặt  viên  đạn  chứa  thuốc  ngủ,  thuốc  hạ
        sốt  giảm  dau...
           Với  thuôc khó  uống,  mùi  vị  khó  chịu  hoặc  khi  không uô'ng được  (như hôn mê,  co  thắt
        thực  quản,  nôn,  tắc  ruột....)  thì  đặt  thuôc  vào  trực  tràng  rất tô't,  nhất là  cho  trẻ  em.  cần
        chú  ý  ở  trẻ  em,  đặt  thuôc  dễ  gây  ngộ  độc,  vì  chóng  đạt  nồng  độ  cao  trong  máu,  cũng
        cần  tránh  dùng  nhầm  thuôc  đạn  của  người  lớn  mà  lại  dùng  cho  trẻ  em.

            1.5.  Đường  dưới  da:  Tiêm  dưới  da,  thuôc  qua  mô  liên  kết,  thâm   qua  nội  mô  mao
        mạch  và  đạt  tác  dụng  toàn  thân.  Có  thể  làm  tăng  tác  dụng  thuốc,  nếu  tiêm  dưới  da  kết
        hợp  với  thuôc  co  mạch,  ví  dụ  kéo  dài  tác  dụng  gây  tê  của  procain  (novocain)  bằng  cách
        trộn  với  adrenalin  (làm  co  mạch  tại'chỗ);  hoặc  làm  giảm  tính  tan  trong  nước  của  thuôc,
        ví  dụ  phức  hợp  penicilin  -  procain  không  tan  khi  tiêm   dưới  da,  phức  hợp  này  sẽ  hấp  thu
        chậm  và  penicilin  được  phân  tán  dần  dần  vào  cơ  thể.

            1.6.  Qua  cơ  (tiêm  bắp  thịt):  Tuần  hoàn  máu  trong  cơ  vân  được  đặc  biệt  phát  triển.
        Khi  cơ  hoạt  động,  lòng  mao  mạch  giãn  rộng,  khiến  diện  tích  trao  đổi  và  lưu  thông  máu
        lúc  ấy  tăng  lên  hàng  trăm   lần  để  đáp  ứng  như  cầu  cần  cho  hoạt  động  chức  năng  của  cơ;
        vì  vậy  thuôc  hấp  thu  qua  cơ  nhanh  hơn  khi  tiêm   dưới  da.

            Cơ  ít  sợi  cảm  giác  hơn  ở  dưới  da,  nên  tiêm  bắp  ít  đau  hơn  tiêm   dưới  da,  dùng  cho
        dung  dịch  nước,  4ung  dịch  dầu.  Tuyệt  đôl  không  tiêm   bắp  những  chất  gây  hoại  tử  như
        calci  clorid,  ouabain.  cần   lưu  ý  khi  tiêm   bắp  có  thể  chọc  phải  tĩnh  mạch,  nhất  là  khi
        tiêm  dung  dịch  dầu.

            1.7.  Qua  đường  tĩnh  mạch:  Qua  tĩnh  mạch,  thuốc  hấp  thu  nhanh,  hoàn  toàn,  tác
        dụng nhanh  (sau  khi  tiêm  15  giây),  liều  dùng chính  xác,  kiểm  soát  được,  vì  có  thể  ngừng
        tiêm  ngay  nếu  người  bệnh  có  phản  ứng  bất  thường.  Còn  có  thể  tiêm   tĩnh  mạch  những
        chất  không  dùng  dược  bằng  đường  khác  (như  các  chất  thay  thế  huyết  tương)  hoặc  chất
        gây  hoại  tử  khi  tiêm  bắp.

           ■  Cấm  không  tiêm  tĩnh  mạch  dung  môi  dầu,  vì  sẽ  gây  tắc  mạch  phổi,  cũng  cấm  tiêm
        chất  làm  tan  máu  hoặc  độc  với  cơ  tim.  Tiêm  tĩnh  mạch  quá  nhanh  có  thể  gây  rối  loạn
        tim  và  hô  hấp,  giảm  huyết  áp,  trụy  tim  mạch  do  nồng  độ  tức  thời  quá  cao  của  thuôc  ở
        cơ  tim,  phổi,  động  mạch.

            2.  Phân  phôd  thuốc.
            2.1.    Gắn  thuốc  vào  protein  ■  huyết  tương:  Sau  khi  hấp  thu,  thuôc  vào  máu,  nhiều
        thuôc  lúc  đó  gắn  được  vào  protein  -  huyết  tương.  Ý  nghĩa  là:

            Khi  còn  đang  gắn  vào  protein  -  huyết  tương,  thì  thuôc  chưa  có  tác  dụng;  chỉ  dạng
        tự  do  (không  gắn  vào  protein  -  huyết  tương)  mới  có  tác  dụng;

            -  Protein  -  huyết  tương  là  "tổng  kho"  dự  trữ  thuôc;

            -  ơ   trẻ  sơ  sinh  (nhất  là  trẻ  thiếu  tháng),  khả  năng  gắn  thuôc  vào  protein  -  huyết
        tương  còn  kém  nên  trẻ  dễ  nhạy  cảm  với  nhiều  thuôc  (như  theophylin,  phenylbutazon,
        rifampicin,  lincomycin,  quinin,  diazepam,  erythromycin...)
   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12