Page 388 - Di Tích Lịch Sử
P. 388

nước Nam Bàn, xem đây là vùng đệm ngăn cách Đại Việt với Chămpa từ miến núi sâu
         ra tận biển.
             Tuy nhiên, các vua Chămpa liên tiếp đem quân đánh phá cả Hoa Anh lẫn Nam
         Bàn, tái chiếm lại vùng đệm này, đồng thời ngưng trệ hẳn mọi hoạt động xây dựng đến
         tháp trên toàn bộ vương quốc để dốc sức dựng lên một thành lũy kiên cố, chống trả có
         hiệu quả nhằm bảo vệ phẩn lãnh thổ ít ỏi còn lại ở phía nam. Thành Hồ có mặt trong
         tình thế mới xuất hiện mang tính giằng co quyết liệt này tại bờ bắc vùng hạ lưu sông
         Ba, nơi có vị trí chiến lược cực kì quan trọng, không chỉ hiểm yếu về mặt quân sự mà
         cả thế đứng vê' chính trị và tiềm năng kinh tế.
             Năm  1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù Nghĩa hẩu Lương Văn Chánh đem quân
         tiến vào Hoa Anh tấn công thành Hổ, tướng tiên phong là Cao Các mắc mưu lọt vào
         cửa tử nên bị tử nạn, cũng nhờ đó Lương Văn Chánh khám phá ra bí mật bố phòng của
         quân Chăm, thúc tướng sĩ xông vào các cửa sinh và triệt hạ được thành. Vua Chămpa
         là Pô Át (1553 -   1579) có lẽ đã chết trong thời điểm này.
             Trong khoảng 10 năm cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, Chămpa vẫn tiếp tục phản
         công hòng chiếm lại vị trí hiểm yếu  đã mất này, song không còn cơ hội để thực hiện.
         Vua Po Nít (1603 -   1613) phải từ bỏ Hoa Anh rút vào phía nam đèo Cả. Năm  1611,
         phủ Phú Yên xuất hiện tên trên địa bạ hành chính thuộc danh mục “đất mới mở” của
         chính quyền chúa Nguyễn Đàng Trong.  Một cột mốc quan trọng được đánh dấu tại
         đây trong công cuộc mở đất hướng về phương nam của dân tộc.
             Thành Hồ là một toà thành có bình đổ gần với hình chữ nhật, các bờ thành nằm
         đúng với các hướng đông -  tây -  nam -  bắc. Mặt phía nam giáp sông Đà Rằng, phía
         tày giáp núi, mặt phía bắc và phía đông giáp với đổng ruộng bằng phẳng. Ngoài ra có
         một bờ thành thứ năm chạy theo hướng bắc -  nam chia Thành Hồ làm hai phần: Phần
         phía tây còn được gọi là thành nội, phần phía đông còn được gọi là thành ngoại. Một
         số phần của di tích này còn có thể quan sát rõ là bờ thành đông có chiều dài 719m, mặt
         thành rộng từ 5 -  7m, chần thành rộng từ 30 -  40m, bờ thành cao khoảng 5m.
              Bờ thành bắc có  chiều dài  726m,  chiều rộng và chiểu cao  giống như bờ thành
         đông.  Bờ thành nam đã bị đổ sụp xuống sông Đà Rằng, chỉ còn một phẩn ở góc tây
         nam dài 250m. Bờ thành tây chạy vòng qua phía tây của Hòn Mốc, được phân thành
         hai đoạn: Đoạn thứ nhất từ góc đông nam đến chân phía tây Hòn Mốc dài 600m; đoạn
         thứ hai chạy xéo ở góc phía tây bắc nối bờ thành tây và bờ thành bắc. Bờ thành thứ 5
         là bờ thành giữa, dài 920m.  Phía bắc bờ thành giữa hiện nay đã bị phá một đoạn để
         làm mương dẫn nước.
             Bên trong vòng thành có một bức tường thành thứ nàm chạy theo hướng bắc -  nam,
         song song và cách tường thành phía đông 700m, chia khu thành làm hai phần đông và tây.
         Khu tây là thành nội, hẹp nhưng cao hơn thành ngoại phía đông, có mỏm sân cờ rộng 34 X
         34m, cao lOm. Song song vê' phía ngoài và cách tường thành phía tây 28m, còn có một bức
         tường chắn thứ sáu, xây trên sườn núi như một lá chắn, dài 360m, gọi là thành chắn.
             Thành Hổ có tất cả 8 cửa ra vào, rộng từ 6 -   14m, từ ngoài và trong thành có dấu
         vết những hào nước và ba hổ lớn. Mỗi phía thành có mở 2 cửa ra vào, gọi là cửa sinh

                                 M ộ t  số   ticti lỊcVi sử -  VÂM tioÁ Việt N A m
                                            c SM )
   383   384   385   386   387   388   389   390   391   392   393