Page 181 - Di Tích Lịch Sử
P. 181
Cột cờ Hà Nội là di tích được xây dựng năm 1812 dưới triều Gia Long. Cột cờ
cao 60m, gổm có chân đế, thân cột và vọng canh. Chần đế hình vuông chiếm một
diện tích là 2.007m^ và gổm 3 cấp thóp dần lên. Mỗi cấp đểu có tường hoa với hoa
văn bao quanh.
Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm năm cổng
xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn.
Điện Kính Thiên là di tích trung tâm, là hạt nhân chính trong tổng thể các địa
danh lịch sử của thành cổ Hà Nội. Điện Kính Thiên chiếm vị trí trung tâm của khu di
tích. Trước điện Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột cờ Hà Nội, phía sau có hậu lâu,
cửa bắc, hai phía đông và tây có tường bao và mở cửa nhỏ. Dấu tích điện Kính Thiên
hiện nay chỉ còn là khu nển cũ. Phía nam nền điện còn có hàng lan can cao hơn Im.
Mặt trước, hướng chính nam của điện Kính Thiên xây hệ thống bậc lên bằng những
phiến đá hộp lớn. Thềm điện gồm 10 bậc, 4 rồng đá chia thành 3 lối lên đểu nhau tạo
thành thềm rồng. Bốn con rồng đá được chế tác vào thế kỉ XV thời nhà Lê. Rồng đá
điện Kính Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật tuyệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật
điêu khắc thời Lê sơ. Được chạm trổ bằng đá xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to,
mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra sau, miệng hé mở, ngậm hạt ngọc. Thân
rồng uốn lượn mềm mại thành nhiều vòng cung, nhỏ dần vể phía nển điện ở trên.
Trên lưng rổng có đường vầy dài nhấp nhô như vân mây, tia lửa. Hai thành bậc ở hai
bên thểm điện là hai khối đá chạy dài, chính là hai con rổng được cách điệu hoá. Nển
điện Kính Thiên và đôi rồng chầu đã phẩn nào phản ánh được quy mô hoành tráng
của điện Kính Thiên xưa.
Nhà D67 khu A Bộ Quốc phòng là nơi Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã
đưa ra những quyết định lịch sử đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam.
Đó là: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Cuộc tổng tiến công năm 1972, đánh thắng
hai cuộc chiến của Mỹ mà đỉnh cao là 12 ngày đêm cuối năm 1972, Tổng tiến công
năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hổ Chí Minh.
Lẩu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc lâu/ Hậu lâu) là một toà lẩu xây phía sau cụm kiến trúc
điện Kính Thiên là hành cung của thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau hành cung nhưng lại
là phía bắc, xây với ý đổ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới có tên
là Tĩnh Bắc lầu và còn có tên là Hậu lâu (lầu phía sau), hoặc là lầu Công chúa do cho
rằng đây là nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống vua Nguyễn ra ngự giá
Bắc thành.
Chính Bắc Môn (iE^bP')) là một trong năm cổng của thành Hà Nội thời Nguyễn.
Khi Pháp phá thành Hà Nội, chúng giữ lại cửa Bắc vì nơi đây còn hai vết đại bác
do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882 khi Pháp hạ thành Hà Nội lần
Một »ố bí ticli lỊcVi *vf - VẢM VioẮ Việt Nam
c 1»4)