Page 99 - Đề Hùng Và Tín Ngưỡng Thờ Cúng
P. 99
ĐỀN HÙNG VÀ TfN NGtíSNG TflỀI CÚNG tlÙNG VữŨNG
trí độc tôn dựng nước, sinh dân tộc thuộc về các Vua Hùng. Vấn đê'
“Quốc Tổ” đã được gắn với “Hùng Vương” thay vì chữ nghĩa “Lạc
Vương” trong tâm thứt vương quyển vay mượn của một dân tộc
chưa khẳng định nến quốc gia độc lập. Từ đây trong ảnh xạ văn
hóa tâm linh của người Việt - Vua Hùng hiển hiện như bình diện
của ý thức tự cường của một quốc gia hùng mạnh:
'‘Trải Triệu - Đinh - Lý - Trần bao đời xây nển độc lập
CùngHán - Đường- Tống-Nguỵên mỗi bên hùng cứ một phương”
Cố giáo sư sử học Trẩn Quốc Vượng đã giải thích rẳng “Vua
Hùng” là phiên âm của một từ Việt cổ: Vua -> Bua - > Bô -> Pô
= (bố); Hùng -> Khun = Cun = Thủ lĩnh. Vua Hùng = Bố của các
thủ lĩnh = Thủ lĩnh tối cao. Danh hiệu Hùng Vương chỉ là một sự
lắp ghép danh hiệu Bố Cái Đại Vương (Bố Cái = Vua lớn = Đại
Vương) để chỉ vua Phùng Hưng sau này.
Sách “Việt sử lược” đời Trần chép: “Đến đời Trang Vương nhà
Chu (696 - 682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật
áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn
Lang, phong tục thuẩn hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút,
truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.
Như vậy, trong ký ức văn hóa của nhân dần, hình ảnh Vua
Hùng được khắc họa là ông vua mở nước dựng làng; để rối ở các
thế kỷ sau chính ông vua ấy lại trở thành ông Tổ của người Việt,
sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con trai - hình thành
nên nghĩa “đồng bào”.
“Ngọc phả cổ truyền vể 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” đã
viết “Đến giờ Ngọ ngày 28 tháng Chạp, hương lạ đầy nhà, hào quang
khắp phòng, bà Âu Cơ sinh một bọc...; đến giờ Ngọ ngày Rằm tháng
Giêng, trăm trứng vỡ ra đểu thành điểm trăm người con trai”.
Các sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” năm
1840; “Việt Nam sử học” năm 1919; “Việt Nam văn hóa sử cương”