Page 98 - Đề Hùng Và Tín Ngưỡng Thờ Cúng
P. 98

PHẠM BÁ KMÉM

         chi đời Thánh Vương triều Hùng” (Hùng đồ thập bát diệp thánh
         vương Ngọc phả cổ truyền). Với sự ra đời của bản ngọc phả này,
         Hùng Vương đã được chính thức hóa trong tòa chính sử Việt Nam
         và từ đây vua Hùng đã có tông phả ở giữa thế gian. Cũng nhờ có
         tông phả đó mà triểu đình Hậu Lê mới có đủ điểu kiện để làm lễ
         “tế giao” như các vua phương Bắc, để xác nhận quyền độc lập quốc
         gia và quyền lực chuyên chế của ông vua nước Đại Việt:
                “Như nước Đại Việt ta tù trước

                Vốn xưng nển văn hiến đã lầu
                Núi sông bờ cõi đã chia
                Phong tục Bắc Nam cũng khác”

                         (Bình ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
           Năm  1497, trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Ngô Sĩ
         Liên đã có đầ đủ yếu tố thuận lợi để đưa họ Hồng Bàng vào chính
         sử Việt Nam.  Đó là bước phát triển vượt bậc trong ý thức hệ và
         tư  duy của Nho giáo phong kiến Việt Nam xưa luôn hạ mình là
        hàng “phiên thần” trong ý thức tự ti, chia sẻ văn hóa theo thứ bậc
        để vượt lên ý thức tự tôn dần tộc, văn hóa bác học ngang hàng với
        nước lớn Bắc phương.
           Từ đây về sau vua Hùng được gọi là Thánh tổ và được chính
        quyển  Trung ương công nhận;  nhân  dân ta trên khắp mọi  miền
        đất nước xây đến thờ phụng. Đên Hùng thuộc xã Hy Cương, TP.
        Việt Trì được lưu giữ Ngọc phả HíỉHg Vương và nhân dân xã Hy
        Cương dược vinh danh là dân trưởng tạo lệ hương hỏa ngàn thu.

        2.  Vua Hùng trong ảnh xạ ván hóa tâm linh của người Việt.

           Trải qua hàng trăm năm, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, từ ngữ
        danh xưng Hùng Vương đã được tích tụ dẩn trở thành chính thống
        bằng việc  soạn  dựng  “Ngọc  phả  cổ  truyền vể  18  chi đời  Thánh
        Vương triều Hùng”. Năm  1470, triều đại Hậu Lê đã khẳng định vỊ
   93   94   95   96   97   98   99   100   101   102   103