Page 25 - Đề Hùng Và Tín Ngưỡng Thờ Cúng
P. 25

C2S                    DỀN tíàNG VÀ TÍN NGtíSNE Ttìờ CÚNG tìQNG VđŨNG


         Năm Tự Đức thứ 3 (1850) Hình Bộ thượng thư Nguyễn Đăng
      Giai, nhân thấy chùa cũ nên cho trùng tu. Năm Khải Định thứ 9
      (1924) tuần phủ Lê Văn Đỉnh lại cho tu bổ chùa.
         Năm  Khải  Định thứ 7  (1922)  trùng tu miếu Giếng.  Năm Bảo
      Đại thứ 10 (1925) lại tu bổ thêm.

         Đặc  biệt  bia  còn ghi:  “Trước  đây,  ngày quốc  tế được  tổ  chức
      Xuân  -  Thu  nhị kỳ.  Năm  Khải  Định thứ 2  (1917)  tuần phủ  Phú
      Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định lấy ngày 10
      tháng 3 Âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày Giỗ
      Tổ Hùng Vương một ngày, còn ngày Giỗ (11/3) do dân sở tại làm
      lễ tế.
         b.    Bia  số 2:  “Bia  ghi  kỷ  niệm  ở  miếu  thờ  Hùng  Vương”
      được khắc vào mùa xuân, năm Quý Hợi, niên hiệu Khải Định
      tháng 8 (1923) do Nguyễn Huy Vĩ, hiệu Tây Đình cư sĩ, người
      tỉnh Hà Đông viết chữ, nội dung bia ghi việc tu sửa các di tích
      trên núi Hùng.
         -  Năm  Duy  Tân  thứ  3  (1909)  Thái  xuyên  Hoàng  Cao  Khải
      thương lượng với  Chính phủ xin  cấp  2000đ tiền  công để tu  sửa
      lăng miếu Tổ Vương.
         -  Năm  Duy Tần  thứ  7  (1913)  lĩnh  số  tiền  cấp  phát  chế tạo
      đồ  tự khí khai  mở đường lên  núi.  Năm  Duy Tân  thứ  8  (1914)
      khánh thành.
         - Năm Duy Tân thứ 9 (1915) đến Khải Định năm thứ 2 (1917)
      tu tạo miếu Thượng, tiền đường, làm thêm đổ tự khí, xây lầu cửa
      dưới chân núi, dựng phương đình sau chùa làm nơi công hội.
         - Khải Định năm thứ 6 (1921) và Khải Định năm thứ 7 (1922)
      tạo dựng 7 gian nhà công quán hết 1609 đồng 7 hào 1 xu. Trùng tu
      miếu Giếng làm mới chính tẩm, bái đường, phương đình, hai bên
      nhà tả hữu.
   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29   30