Page 165 - Đánh Giá Cạnh Tranh Trong Một Số Ngành Dịch Vụ Của Việt Nam
P. 165

Ngành thẻ ngân hàng                                                                          159

            đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất.
            Chưa  kể  đến  không  phải  lúc  nào  lãi  suất  ngân  hàng  cũng  hấp  dẫn
            người tiêu dùng.

                  Với những lý do trên, hiện nay nguy cơ bị thay thế từ các khách
            hàng cá nhân đối với dịch vụ thẻ là tương đối cao. Tuy nhiên, đa số
            những người có thu nhập cao và thuộc tầng lớp giàu có trong xã hội đã
            bắt đầu đổi sang sử dụng thẻ tín dụng. Lợi nhuận của các ngân hàng
            chủ yếu thu được từ khách hàng doanh nghiệp và các khách hàng giàu
            có này, do đó nguy cơ thay thế của khách hàng là không đáng kể.

                  1.3. Quyền lực của khách hàng

                  Các  ngân  hàng  muốn  tồn  tại  và  hoạt  động  cần  rất  nhiều  các
            khoản huy động vốn từ khách hàng, do đó việc thu hút dòng vốn của
            khách hàng vô cùng quan trọng để ngân hàng thực hiện các giao dịch
            và duy trì hoạt động sinh lời. Ở Việt Nam, nguy cơ thay thế đối với
            các khách hàng cá nhân của ngân hàng khá cao vì như đã nói ở trên,
            ngoài việc gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng cá nhân (chiếm đa số
            trên thị trường Việt Nam và là thị trường giàu tiềm năng trong tương
            lai) còn có rất nhiều cách để cất giữ và đầu tư. Với chi phí chuyển đổi
            thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu muốn chuyển nguồn
            vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác, do đó
            không thể đánh giá thấp quyền lực của người tiêu dùng trong ngành
            ngân hàng.

                  1.4. Quyền lực của các nhà cung cấp

                  Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ
            có thể là những cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc
            là những công ty chịu trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM.
            Ở Việt Nam các ngân hàng thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho
            mình những nhà cung cấp riêng tùy theo điều kiện. Điều này góp phần
            giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp
            cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp
            khác. Tuy nhiên khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ
            thống, ngân hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn
            kém,  điều này lại làm  tăng quyền lực của nhà  cung cấp thiết  bị  đã
            thắng thầu.`
   160   161   162   163   164   165   166   167   168   169   170