Page 163 - Đánh Giá Cạnh Tranh Trong Một Số Ngành Dịch Vụ Của Việt Nam
P. 163
Ngành thẻ ngân hàng 157
năm. Ngành ngân hàng đã có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức
tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt
Nam và sự xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Trong
khi các ngân hàng nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều thì ngân
hàng nội địa lại càng ít, nhất là kể từ sau khi Chính phủ tạm ngưng cấp
phép thành lập ngân hàng mới từ tháng 8-2008. Ngoài các quy định về
vốn điều lệ, thời gian phải liên tục có lãi, các ngân hàng mới thành lập
còn bị giám sát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước. Thực chất đây là
một rào cản bắt nguồn từ quy định pháp lý.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị
trường, thị trường mục tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến,
giá trị thương hiệu cũng như cơ sở khách hàng, lòng trung thành của
khách hàng mà các ngân hàng đã xây dựng được. Những điều này đặc
biệt quan trọng bởi nó sẽ quyết định khả năng tồn tại của một ngân
hàng đang muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.
Một khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho mình một
thương hiệu bền vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính hiệu quả
và khác biệt cộng với một cơ sở khách hàng đông đảo và trung thành,
chi phí chuyển đổi (switching cost) để lôi kéo khách hàng của ngân
hàng mới thành lập sẽ cực kỳ cao và do đó họ bắt buộc phải cân nhắc
thật kỹ trước khi quyết định gia nhập thị trường. Thực tế trên thị
trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy, chi phí chuyển đổi nhìn
chung không cao do các ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm khác
biệt về chiến lược sản phẩm, dịch vụ.
Ngoài ra, các ngân hàng thành lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc
rối khi tìm địa điểm để đặt văn phòng chính cũng như các chi nhánh
văn phòng giao dịch bởi các vị trí đẹp và tiện lợi đều đã bị các ngân
hàng đang hoạt động giành mất, điều này tăng ưu thế về hệ thống phân
phối của các ngân hàng hiện tại và làm tăng chi phí chuyển đổi cho
các ngân hàng mới muốn gia nhập. Khi đó giải pháp đặt ra là các ngân
hàng mới cần phát triển công nghệ kỹ thuật để phát triển mạng lưới
thông qua Internet banking hoặc hệ thống ATM.
Trong bối cảnh Việt Nam cũng như thế giới đang trải qua thời kì
khủng hoảng kinh tế, rào cản gia nhập khá cao khiến cho nguy cơ xuất
hiện ngân hàng mới trong tương lai gần là khá thấp. Nhưng một khi