Page 142 - Các Chuyên Đề Về Nguy Cư Sức Khỏe
P. 142

1.1.3.  Châu A





                                                                   Năm 2004 tại Trung Quốc, He-Zeng cho thấy tỷ lệ cận thị ở trẻ em 6-7 tuổi


                                                    là  7,7%  và  11-12  tuổi  là  41,7%.  Tại Đài Loan (2001),  Lin và Shih công bô" tỷ lệ


                                                    cận thị ở trẻ em 6*7 tuổi là 20,0% và  11-12 tuổi là 61,0%. Khi nghiên cứu 4.029




                                                    trẻ từ 3-18 tuổi ở 9 trường thuộc vùng Nam Ân Độ,  Kali Kivayi và cộng sự cho


                                                    thấy tỷ lệ cận thị là 8,16%.




                                                                   Tại Singapore (2002) tỷ lệ cận thị ở trẻ em 6-7 tuổi là 29,0% và  11-12 tuổi


                                                    là  53,1%,  tại Thái Lan trẻ em từ 6-12 tuổi có tỷ lệ cận thị là  12,50%.  Qua điều



                                                    tra 44 402 học sinh từ tiểu học đến trung học tại tỉnh Battamlong (Campuchia)


                                                    tỷ lệ cận thị ià 0,80%.





                                                                   Tổ chức Y tế thế giới phối hợp với Trường đại học Junten (Nhật Bản) đã tổ


                                                    chức  3 Hội nghị liên Quốc gia vê' phòng chông mù loà.  Hội nghị lần thứ 3 được


                                                    tổ chức năm 2000 tại Hà Nội với chủ đê' chính là tật khúc xạ, một vấn đề có tỷ lệ



                                                    người  mắc bệnh cao,  đặc biệt ở lứa tuổi thanh  thiếu niên,  nhưng hiện  nay vẫn


                                                    chưa  được  quan  tâm  đúng  mức.  Các  đại  biểu  đã  được  nghe các báo cáo  về  tật



                                                    khúc xạ, thảo luận sâu vấn đề cận thị học đường để  đề ra một tiêu chuẩn chẩn


                                                    đoán, điều trị và phòng bệnh thông nhất.






                                                    1.1.4. Một số yếu tố  có liên quan đến cận thị





                                                                   - Yếu  tô'  di  truyền:  tại  Singapore  theo  Saw  S.M.,  Nieto  F.J,  Chew  S.J


                                                                   (2000) cho thấy có sự liên quan rõ rệt giữa yếu tô" gia đình với sự tiến triển



                                                                  cận thị của trẻ.



                                                                   - Yếu  tố dân tộc:  một nghiên  cứu  ở  Malaysia cho thấy  tỷ  lệ  cận  thị có  sự



                                                                   khác  biệt giữa  3 cộng đồng dân tộc chủ yếu ở Malaysia,  tỷ  lệ cận thị cao


                                                                   nhất ở cộng đồng ngưòi Trung Quốc, tiếp đến là cộng đồng người Malaysia



                                                                   và thấp nhất ỏ cộng đồng người An.




                                                                   - Yếu tố dinh dưỡng:  có sự liên quan chặt chẽ giữa yếu tố dinh dưõng,  sự


                                                                   phát triển thể chất với cận thị, khi phát triển thể chất kém, sẽ dễ mắc cận



                                                                   thị và cận thị sẽ tăng nặng nhanh.



                                                                   - Trình  độ  dân trí:  sự thiếu  hiểu biết về cận thị và các yếu  tố nguy cơ có



                                                                   liên quan chặt chẽ với cận thị, đây là một yếu tô" quan trọng làm cho tỷ lệ


                                                                   mắc và mức độ tăng nặng của cận thị ngày càng cao.






                                                    1.2. Nghiên cứu cận thị học đường ở Việt Nam




                                                                   Trong thòi Pháp thuộc,  sô" trường học rất ít và việc nghiên cứu về vệ  sinh



                                                    trường học cũng không được để ý đến. Sau hoà bình lập lại, số trường học và học


                                                    sinh  ngày  càng  tăng lên,  Đảng và  Nhà nước  đã  quan tâm  đến  vệ  sinh  trường



                                                    học. Từ năm  1960, Viện Vệ sinh dịch tễ và Viện Mắt đã phối hợp nghiên cứu, để


                                                    ra các biện pháp  để cải thiện điều  kiện  học tập,  trong đó có các nghiên cứu về



                                                    vấn để chiếu sáng tại lốp học và vấn đê' cận thị học đường.



                                                    142
   137   138   139   140   141   142   143   144   145   146   147