Page 141 - Các Chuyên Đề Về Nguy Cư Sức Khỏe
P. 141

Các  nhà  nghiên  cứu  cũng chỉ  rõ cần  có sự can  thiệp  và  phối  hợp  đồng bộ



                                               giữa các ngành Y tế - Giáo dục và gia đình để hạn chế các yếu tô' nguy cơ gây tật



                                               khúc xạ học đường đặc biệt là cận thị trong học sinh phổ thông.




                                                               Một số giải pháp  phòng chống cận thị học  đường đã  được  đề cập  đến như



                                               đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh trường lớp học, hạn chế các yếu tố nguy cơ, đảm



                                               bảo  dinh  dưỡng cho  mắt,  giáo  dục  sức  khoẻ  cho các đối  tượng  như phụ huynh,



                                               học sinh, thầy cô giáo





                                                                  Việc nghiên cứu và áp dụng các giải pháp phòng chống cận thị học đường



                                               đê  hạn  chê  tỷ  lệ  mắc  mới,  phòng  chống  sự  tăng  nặng  của  bệnh  và  các  biến



                                               chứng của nó hiện nay đang là vấn đề bức thiết,  được ngành Y tế - Giáo dục và



                                               toàn xã hội  rất quan tâm.







                                                1. TÌNH HÌNH MẮC CẬN THỊ HỌC ĐƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

                                                                                                                 •            •  •                                                                                                                                        •


                                               1.1. Nghiên cứu cận thị học đường trên thế giới





                                                              Việc nghiên cứu vấn  để cận thị trên học sinh chỉ được bắt đầu vào khoảng



                                               những năm 70 của thế kỷ XIX. Trưốc đó, cận thị được coi là một bệnh di truyền,



                                               tiến triển và  ác tính nên đối vói cận thị, các nhà nghiên cứu coi như một bệnh


                                               rất khó phòng và chữa được.  Ngày nay, việc nghiên cứu, điều tra về cận thị học



                                               đường  được rất nhiều  nưốc  trên  thế giối  quan  tâm,  đặc  biệt vì  sự gia  tăng của



                                               cận thị học đường.







                                               1.1.1.  Châu Âu





                                                              Hermann  Coba  (1876)  nghiên cứu  10  060  học  sinh các trường học ở  Cộng



                                               hoà  Liên  bang Đức  cho  tỷ lệ  cận  thị  tại  trường cấp  I  là  6,7%,  trường cấp  II  là



                                               19,7%  và  trường  cấp  III  là  26,2%.  Tại  Nga  kết  quả  nghiên  cứu  của  Erisman



                                               (1870)  cho thấy: tỷ lệ cận thị ở các trường trung học Saint Petersburg là 30,2%.



                                               Lindstrom công bô' ở Châu Âu cận thị chiếm tỷ lệ 25%,  trong đó 90% từ  1  -  6D,



                                               5% từ 6 - 8D, 5% trên 8D.





                                                              Những kết quả nghiên cứu này đã làm cho các nhà nhãn khoa, các nhà vệ


                                               sinh  học và các thầy cô  giáo bắt đầu  thấy việc cần nghiên cứu tìm hiểu vể cận



                                               thị học đường, một bệnh xuất hiện và tiến triển trong thời gian đi học.







                                               1.1.2.  Châu Mỹ





                                                              Năm  1994,  MC  Carty và cộng sự,  điều tra  một sô* lượng lớn dân cư tại Mỷ



                                               cho biết tỷ lệ cận thị nhẹ là 43% (nhỏ hơn 5D). Theo Morgas K.s,  Kenemer. J.C



                                               (1997) khi khám  14.075 trẻ em tuổi từ nhà trẻ đến học sinh lóp 4 của 70 trường



                                               trong 5 bang phía Tây Nam nước Mĩ, thấy tỷ lệ cận thị là 4,5%.











                                                                                                                                                                                                                                                                    141
   136   137   138   139   140   141   142   143   144   145   146