Page 71 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 71
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ
Tuy nhiên, để có thể sử dụng chỉ tiêu này, việc xác định rõ
ràng phạm vi của CNHT và tiêu chí doanh nghiệp CNHT (là
doanh nghiệp có hoạt động sản xuất) là cần thiết bởi vì trên
thực tế có nhiều DN đa ngành, vừa thực hiện hoạt động TM,
vừa sản xuất nhiều loại SP khác nhau. Bên cạnh tiêu chí về số
lượng DN tuyệt đối, cần xem xét đến cả tiêu chí tương đối
trong tương quan so sánh với số lượng DNCN chính. Như ở
phần đặc điểm CNHT đã chỉ ra, một DNCN chính cần có
nhiều DN CNHT tham gia cung cấp đầu vào và nằm ở nhiều
lớp khác nhau. Như vậy, lĩnh vực CNHT phát triển khi tỷ lệ
số DN CNHT trên số DN chính lớn.
- Quy mô DN CNHT: Nhược điểm của chỉ tiêu số
lượng DN là chưa xem xét đến quy mô DN. Mặc dù, lĩnh
vực CNHT chủ yếu bao gồm các DNNVV, nhưng cũng có
thể có một số DN lớn, và các DNNVV cũng có quy mô
khác nhau. Chính vì vậy, khi xem xét mức độ phát triển
của CNHT, cần tính đến cả quy mô DN CNHT, bao gồm:
số lao động trung bình; số vốn trung bình; doanh thu trung
bình... Tuy nhiên, khi sử dụng tiêu chí này, cần chú ý rằng
không phải quy mô DN lớn hàm ý sự phát triển cao của
lĩnh vực CNHT. Các DNNVV có những ưu điểm riêng, và
thích hợp với lĩnh vực CNHT.
- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp CNHT: Lĩnh
vực CNHT phát triển khi các doanh nghiệp CNHT không chỉ
tồn tại (thể hiện ở số lượng doanh nghiệp) mà quan trọng hơn
phải đáp ứng được yêu cầu của khách hàng trong CN chính.
Trong đó, yếu tố trình độ công nghệ giữ vai trò quan trọng.
Với trình độ công nghệ hiện đại, các DN CNHT không chỉ
71