Page 76 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 76
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
các công ty, tập đoàn lớn từ chính các nước đầu tư sang mở
thêm các cơ sở CNHT tại Thái Lan.
Đối với Malaysia, thực tế cho thấy nước này có những
chính sách thu hút ĐTNN với sự nhấn mạnh vào ngành chế
tạo rất rõ rệt. Trước hết, chế tạo là hướng nhấn mạnh quan
trọng trong chính sách TM và CN của nước này trong các
giai đoạn phát triển khác nhau. Theo Tham Siew - Yean
(2003), chính sách TM và CN của Malaysia từ năm 1957 tới
nay được chia làm 4 giai đoạn: Thay thế nhập khẩu (1957-
1970); Định hướng xuất khẩu (1970-1980); Thay thế nhập
khẩu vòng hai (1980-1985); và Định hướng xuất khẩu (1990
đến nay). Bốn giai đoạn này đều coi chế tạo là điểm nhấn
mạnh, tuy nhiên với các định hướng ngành và thị trường khác
nhau. Hơn nữa, nước ngày không có một Luật ĐTNN riêng
như các nước khác và đây được coi như một lợi điểm để giúp
cho Chính phủ có thể có đủ khoảng trống trong việc đưa ra
những chính sách điều tiết linh hoạt và thích hợp. Trước năm
1998, tỷ lệ kiểm soát vốn của nhà ĐTNN phụ thuộc vào tỷ lệ
xuất khẩu SP và họ chỉ được năm 100% vốn nếu có 80% SP
là xuất khẩu và sản xuất sử dụng công nghệ tiên tiến mà
Chính phủ đang khuyến khích. Tuy nhiên, sau khủng hoảng
tài chính châu Á, với việc suy giảm dòng vốn nước ngoài nói
chung, Chính phủ đã dỡ bỏ mọi hạn chế về tỷ lệ sở hữu đối
với dòng vốn này vào khu vực chế tạo (Investment Regim:
Malaysia, 2004). Việc thay đổi chính sách như vậy rõ ràng là
có ảnh hưởng đến chính sách xã hội nổi tiếng của Malaysia
trong việc tái phân phối của cải nhằm ưu tiên hơn cho người
Malaysia gốc là Bumiputras. Tuy nhiên khi điều kiện kinh tế
76