Page 18 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 18

Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

                  Như vậy, có thể thấy khái niệm về CNHT của Việt Nam có
            nét khác biệt so với các khái niệm ở các quốc gia khác:

                  (i)  CNHT  được  xác  định  rộng  hơn,  từ  khâu  sản  xuất
            nguyên vật liệu đến cả các dịch vụ CN và không chỉ tập trung
            các  DNNVV  mà  cả  các  DN  lớn.  Điều  này  đồng  nghĩa  với
            việc rất khó có thể tạo ra được trọng tâm trong CNHT.

                   (ii) Các ngành CNHT ở đây được xác định trên cơ sở
            các ngành CN hạ nguồn (cơ khí, điện tử, ô tô, dệt may, da -
            giầy) chứ không xác định trên đặc thù SP của ngành sản xuất
            hỗ trợ (cơ khí chế tạo, nhựa, điện tử…).
                  Ngoài ra, cùng với thuật ngữ “Công nghiệp hỗ trợ”, có
            một vài khái niệm khác cũng được sử dụng để chỉ ngành CN
            chuyên cung cấp đầu vào như:

                  - CN liên quan và hỗ trợ: Thuật ngữ này được M.Porter
            sử dụng như là một yếu tố quyết định của lợi thế cạnh tranh
            quốc gia. Trong đó, CNHT được định nghĩa như khu vực tạo
            ra các  yếu tố đầu vào được sử dụng rộng rãi,  còn CN liên
            quan là những ngành trong đó DN có thể phối hợp và chia sẻ

            các hoạt động trong cùng chuỗi giá trị khi họ cạnh tranh với
            nhau, hoặc là những ngành sản xuất ra các SP có tính chất bổ
            sung cho nhau
                  - Thầu phụ:  Thuật  ngữ này đã được sử dụng khá lâu
            trong ngành CN nhưng không được định nghĩa cụ thể. Theo
            Cơ quan Phát triển CN Liên hợp quốc (UNIDO) thì thầu phụ
            là: “thỏa thuận giữa hai bên nhà thầu chính và nhà thầu phụ.
            Nhà thầu chính giao cho một hoặc một vài DN sản xuất linh



                                         18
   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23