Page 17 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 17
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ
những SP có độ chính xác lớn, thực hiện các cam kết hợp
đồng với khách hàng một cách chuẩn mực; (iv) khách hàng
cuối cùng của các ngành CNHT là nhà lắp ráp, do vậy, thị
trường của CNHT không rộng như sản xuất SP cho người
tiêu dùng cuối cùng. Thị trường hàng hoá của họ thu hẹp hơn,
có những nhóm SP nằm ở phần thị trường rất hẹp và chỉ dành
cho một số khách hàng nhất định. Đây chính là khó khăn lớn
nhất để phát triển CNHT. Mặc dù vậy, CNHT lại trở nên hấp
dẫn và tương đối ổn định nếu DN hỗ trợ đó tìm được khách
hàng dài hạn, hoặc tìm được thị trường “ngách” cho mình.
Ở Việt Nam, khái niệm CNHT xuất hiện trong các
chương trình hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Thuật ngữ CNHT
được sử dụng chính thức từ năm 2004, chủ yếu trong các chỉ
thị, công văn chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ. Nội dung
phát triển CNHT đã được đề cập trong Quy hoạch tổng thể
phát triển các ngành CN Việt Nam và Kế hoạch tổng thể phát
triển CN điện tử Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến
2020. Trong đó, CNHT được định nghĩa: Hệ thống CNHT là
hệ thống các nhà sản xuất và công nghệ sản xuất có khả năng
tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh
kiện, phụ tùng… cho khâu lắp ráp cuối cùng
Trong bản quy hoạch này, CNHT được phân chia thành
hai thành phần chính, phần cứng liên quan đến sản xuất và
phần mềm là hệ thống dịch vụ CN và marketing. Năm nhóm
ngành đã được Chính phủ chỉ định ưu tiên phát triển CNHT
và được hoạch định kế hoạch phát triển cụ thể, đó là: cơ khí,
điện tử, ô tô, dệt may, da - giầy.
17