Page 23 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 23
Một số vấn đề lý luận chính sách ........ ngành công nghiệp hỗ trợ
ngành CN cơ bản, cần có sự phát triển của các ngành CNHT
khác nữa. Như vậy, chỉ với một SP, chuỗi giá trị đã kéo dài
và mở rộng ra hầu hết các ngành CN cơ bản và tạo ra giá trị
cho nhiều ngành CN khác.
- Thứ tư, CNHT không phải là ngành “công nghiệp
phụ”. Nói đến CNHT người ta thường nghĩ đến các ngành
sản xuất phụ tùng, linh kiện, nguyên phụ liệu cho các ngành
lắp ráp như ô tô, xe máy, máy móc thiết bị cơ khí, điện, điện
tử, dệt may … (những ngành thường được coi là ngành CN
chính). Chính vì vậy, trên thực tế, CNHT thường bị coi là
ngành “công nghiệp phụ”, tuy nhiên, điều này hoàn toàn
không hợp lý. Về mặt lý luận CNHT có thể được hiểu là
ngành đối xứng với các ngành CN lắp ráp, có vai trò như các
ngành CN khác. Ngành CN chính, chỉ có thể phát triển khi
ngành CNHT phát triển và ngược lại, khi ngành CN chính đã
phát triển sẽ tạo “động lực” thúc đẩy phát triển ngành CNHT.
- Thứ năm, thu hút số lượng lớn DN, nhất là các
DNNVV. Một đặc điểm của CNHT là nó thu hút một số lượng
DN lớn, với nhiều quy mô khác nhau trong đó có một số
lượng lớn các DNNVV. Do tính chất đa cấp và phát triển
theo hình cây của hệ thống CNHT, số lượng các DN ở cấp
thấp rất lớn. Đa phần các DN ở cấp này là các DNNVV. Ví
dụ trong ngành ô tô Nhật Bản (bảng 1.1) cho thấy, chỉ tính tới
các nhà cung cấp cấp 3, quy mô DN trung bình chỉ là 10 lao
động. Trong các lĩnh vực sản xuất khác, điều kiện cũng tương
tự như vậy.
23