Page 26 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 26
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
giao thoa này làm hạn chế khả năng tiếp cận DN CNHT, kể
cả về mặt nghiên cứu và chính sách.
- Phân loại theo ngành/ công nghệ sản xuất linh kiện.
Đây là cách thức phân loại căn cứ vào chủng loại SP DN sản
xuất ra hoặc công nghệ mà DN đó sử dụng. Ví dụ, một DN
sản xuất dây điện có thể cung cấp SP cho sản xuất xe máy,
điện, điện tử...; một DN cơ khí chế tạo khuôn mẫu có thể
cung cấp cho khách hàng trong ngành nhựa, ô tô, xe máy, cơ
khí nông nghiệp, điện, điện tử..
Với cách tiếp cận phân loại trên, có thể phân loại
CNHT theo các ngành sản xuất liên quan tới các vật liệu điển
hình: linh kiện nhựa; gia công kim khí; linh kiện cao su; linh
kiện thủy tinh; sản xuất hóa chất; nguyên liệu thô; …
Cách phân loại này khắc phục phần nào nhược điểm
của các phân loại trên khi một DN cung cấp tham gia vào
nhiều ngành sản xuất SP cuối cùng khác nhau. Nhược điểm
của các phân loại này là nó không bao trùm hết toàn bộ ngành
CNHT, các nhà cung cấp trực tiếp cho các nhà sản xuất lắp
ráp SP cuối cùng thường là những nhà sản xuất những cụm
linh kiện với nhiều chi tiết là nhựa, kim loại gia công, cao
su… Cách phân loại theo quy trình công nghệ hay gia công
nguyên vật liệu hạn chế khả năng tiếp cận những nhà cung
cấp trên.
Tuy vậy, nhìn lại lịch sử phát triển của thuật ngữ
CNHT, có thể nói ngành này là một trong những đối tượng
ưu tiên trong chính sách hợp tác phát triển CN của các nước
đang phát triển với các nước phát triển, nhất là Nhật Bản.
Bản thân khái niệm “Công nghiệp hỗ trợ” cũng từ yêu cầu
xây dựng chính sách phát triển và liên kết CN mà ra. Đứng từ
26