Page 296 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 296

những phát hiện này có thể nội suy ở mức độ nào ỏ ngưòi. Chãc




                                             chắn là có nhiều thuốíc đã đ ư ợ c   phát triển có tiềm  năng (mạnh




                                              hơn)  hơn  nhiều  sọ với cromolyn trong test PCA ở chuột  nhưng




                                             lại không có  giá  trị  điều  trị  hen trong lâm  sàng.  Do vậy,  ngày




                                              nay mẫu nghiên cứu này chủ yếu có ý nghĩa lịch sử.









                                              2. Phản vệ phúc mạc thụ động ỏ chuột








                                                             Kỹ thuật này bao hàm việc gây mẫn cảm thụ động đầu tiên



                                              cho dưỡng bào trong khoang phúc mạc của chuột bằng cách tiêm




                                              vào  khoang phúc  mạc kháng huyết thanh  reagin.  Sau  đó tiêm




                                              cho  động vật kháng nguyên thích  hợp  để gây ra  sự giải phóng



                                              các chất trung gian từ dưõng bào như histamine và các leukótriene.




                                              Đánh giá các chất này trong dịch phúc  mạc,  sau  đó  đo sự kích




                                              hoạt dưõng bào.  Phương pháp  này đã  được cải tiến  thêm bằng



                                              cách  tiêm  vào  tĩnh  mạch  một chất  nhuộm  đánh  dấu  trước khi




                                              gây  kích  thích  vào  khoang  phúc  mạc  bằng  kháng  nguyên.  Sự




                                              thoát mạch sau đó của chất nhuộm này vào trong khoang phúc



                                              mạc có  thể  được  sử  dụng như là  một chỉ  sô" về  quá trình viêm




                                              phúc mạc.






                                                             Tiêm cromolyn ngay trước khi kích thích kháng nguyên hầu




                                              như ức chế hoàn toàn sự giải phóng histamine và làm  suy yếu




                                              sự thoát mạch của chất nhuộm,  ức chế giậi phóng leukotriene.




                                              Tuy  nhiên,  khó  khăn  chính  trong việc  đánh  giá  các  dữ  liệu  là



                                              những thay đổi nồng độ các chất trung gian được giải phóng ra




                                              không chỉ bị ảnh hương bởi tốc độ giải phóng chúng mà còn bỏi



                                              tốc độ chúng bị loại bỏ khỏi phúc mạc do chuyển hóa và hấp thụ.




                                              Ngược  lại  phương  pháp  này  cho  phép  đánh  giá  thêm  tác  động




                                             của các thuốc lên sự thoát dịch do sự kích hoạt dưỡng bào. Việc



                                             thoát  thanh  dịch  vào  trong  lòng  đưòng  hô  hấp  của  những  đối




                                             tượng hen có thể có đóng góp vào các biểu hiện của bệnh, và các



                                             thuốc có ảnh hưởng đến phản ứng thoát thanh  dịch  này có thể




                                             có ích trong lâm  sàng.  Tuy nhiên khó có thể dự đoán được mức




                                             độ  tác  động lên  người  của  các  thuổc  ức  chế phản  ứng phản vệ



                                             phúc  mạc  của  chuột;  phương  pháp  này  cơ  bản  cũng  có  nhược




                                             điểm như của test PCA ỏ chuột.












                                             298
   291   292   293   294   295   296   297   298   299   300   301