Page 295 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 295
quả và từ đó đã được sử dụng một cách mạnh mẽ để nghiên cứu
các chất tương tự. Trong phương pháp này, các chất trung gian
viêm được giải phóng bởi các phản ứng quá mẫn cảm tức thì
trong da gây ra tăng tính thấm mao mạch tại chỗ. Đo phản ứng
này cung cấp thông tin về mức độ của phản ứng phản vệ da.
Nói chung người ta thường tiêm cho chuột vào trong lớp bì
huyết thanh có chứa kháng thể IgE đặc hiệu với các kháng
nguyên như ovalbumin. Sau một giai đoạn tiềm tàng từ 24 giờ
đến 72 giờ để cho phép gây mẫn cảm các dưõng bào da, động vật
lại được tiêm trong tinh mạch hỗn hợp kháng nguyên và một
chất nhuộm đánh dấu. Sau đó động vật bị giết và người ta lột bỏ
lâp da lưng để bộc lộ bề mặt bên dưới. Sau đó ngưòi ta tính toán
sự thoát mạch của chất nhuộm đánh dấu bằng cách xác định
đường kính của tổn thương phù nề hoặc bằng cách chiết xuất và
xác định châ't nhuộm đánh dấu bằng phương pháp đo ánh sáng
quang phổ (spectrophotometry). Ngoài ra người ta có thể còn có
thể sử dụng sự thoát mạch của các chất đánh dấu phóng xạ. Các
thuôc xét nghiệm thường được tiêm vào trong ven (tĩnh mạch)
cùng với kháng nguyên, hoặc nếu có thể, sử dụng qua đưòng
miệng từ trước.
Cả cromolyn và nedecromil đều là các chất ức chế hiệu quả
trong hệ nghiên cứu này và chúng có tiềm năng tương tự nhau.
Hai thuôc này có khả năng gây ra tachyphylaxis (giảm nhanh
tác động của thuổc) và tachyphylaxis chéo (xem â dưái), điều
này thường dẫn đến suy nghĩ cho rằng chúng tác động thông
qua một cơ chế chung.
Trưóc mắt, test PCA ỏ chuột có nhiều ưu điểm rõ rệt để thử
nghiệm các thuốc kháng dị ứng mới.Phương pháp này nhanh
chóng, đơn giản và có thể sử dụng để kiểm tra một sô' lượng lớn
các thuốc một cách dễ dàng. Tuy nhiên nó phụ thuộc vào khả
năng của các thuốc ức chế sự giải phóng thể hạt của dưỡng bào
da chuột. Do sự khác biệt của các phản ứng của dưỡng bào đốì
vối các thuốc kháng dị ứng (xem ỏ dưói) nên người ta chưa rõ
297