Page 115 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 115
kể. Nồng độ của caffein trong hùỹết thanh trung bình khoảng
30% nồng độ theophylline, nhưng ở một sô" trẻ sơ sinh nồng độ
này có thể cao hơn đáng kể. Tuy nhiên, việc đo nồng độ caffein
trong huyết thanh â trẻ sd sinh chỉ cần thiết khi xuất hiện các
tác dụng phụ và nồng độ theophylline nằm trong khoảng 5 đến
10 ịigl ml. Theophylline chỉ là một chất chuyển hóa nhỏ của
caffeiri ồ trẻ sơ sinh. ^ "
• * » é w w
Các cách thức chuyển hóa theophylline khác trải qua cơ chế
động học giới hạn khả năng (capacity-limited kinetics), nghía là
sự đào thải càng nhanh ở nồng độ thuốc trong huyết thanh càng
nhỏ, do hệ quả cửà sự bão hòa các hệ men. Khi các giá trị của
hằng sô" Michaelis* Ménton (hằng sô" mô tả động học của men),
Km và Vmax của 1,3- dimethyluric acid cao so với các chất
chuyển hóa khác, thì cách thức này bão hòa các hệ men ỏ những
nồng độ huyết thanh cao hơn, và như vậy sự đào thải dưòng như
đều hơn ở những nồng độ huyết thanh thông thường so vói cốc
cách thức chuyển hóa theophylline khác.
4. Sự đào thải
s
Jenne và các cộng sự trong năm 1970 lần đầu tiên đã mô tả
sự khác biệt về tốc độ đào thải theophylline, nhu cầu liều lượng,
và nồng độ trong huyết thanh giữa các bệnh nhân. Một nhóm
bệnh nhân hen người lổn sử dụng kéo dài theo đưòng uống một
liều lượng cô" định theophylline tạo ra một khoảng nồng độ
huyết thanh rộng. Khi liều lượng được điều chỉnh để sao cho
nồng độ thuốc trong huyết thanh duy trì trong khoảng 10- 20
\ig/ ml là nồng độ được cho là có hiệu quả tối đa mà không gây
ra nguyên cớ nhiễm độc, thì nhu cầu thuôc khác nhau nhiều từ
400 mg đến 2000 mg/ ngày. Sự dao động tương tự về tốc độ đào
thải thuốc cũng được chứng tỏ ỏ trẻ em. Tuy nhiên, do trẻ em có
tốc độ chuyển hóa theophylline nhanh hơn so với ngưòi lớn, nên
nhu cầu liều lượng theo cân nặng ỏ trẻ cao hơn để đạt được nồng
độ điều trị trong huyết thanh (hình 11).
117