Page 215 - Bí Quyết Thi Đậu THPT Quooac Gia Môn Văn
P. 215
III. PHÂN KẼT THÚC
Qua phần trình bày trên, chứng tỏ hướng giải quyêt về sô' phận con người của
hai nhà văn Tô Hoài và Kim Lân thông qua hai tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” và
“Vợ Nhặt” đều thế hiện tính tích cực. Hướng giải quyết của mỗi nhà văn đều
định hướng cho con người, phải có một cái nhìn đúng đắn, đâu là kẻ thù, đâu là
dân tộc, đâu là kẻ thông trị bóc lột dân lành và đâu là quê hương là đất nước
nhằm giúp cho nhân dân lao động nghèo hiểu rõ về cuộc sông về sô' phận của họ
dưới ách thông trị của thực dân phát xít đế họ vững tin, hướng về cách mạng
cùng đứng lên đấu tranh dưới ngọn cờ cách mạng với sự lãnh đạo của Đảng để
giành lại tự do độc lập cho dân tộc, giành lại cuộc đời mình và sô' phận con
người sẽ đổi thay theo chiều hướng tô't đẹp. Đó là hướng giải quyết hợp lí, hợp
với xu thê phát triển của thời đại mang lại cho hai tác phẩm có giá trị, sức sông
suô't bao nhiêu năm qua.
RỪNG XÀ NU
NGUYỄN TRUNG THÀNH
Đề tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nội dung truyện ngắn
“Rừng X à N u” của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “Rùng X à N u” trong truyện ngắn
cùng tên của nhà vàn Nguyễn Trung Thành.
HƯỚNG DẪN
Câu 1. Trình bày hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nội dung truyện ngắn
“Rùng X à N u”.
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1962, Nguyễn Trung Thành vào công tác trên vùng đâ't Tây Nguyên.
Năm 1965 Đê' quô'c Mỹ mở rộng leo thang chiến tranh tại Việt Nam. Trước bom
đạn của Đê' quô'c và chính quyền Sài gòn cũ đã ra sức tàn phá thiên nhiên và
đàn áp, khủng bô' cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên. Trước cảnh đau
thương ấy, tác giả viết lên truyện ngắn “Rừng Xà Nu” năm 1965, trích trong tập
truyện “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” xuất bản năm 1969.
2. Ý nghĩa nội dung:
Ý 1: Tô' cáo tội ác của Đê' quô'c Mĩ cùng chính quyền Sài gòn cũ trên vùng đất
Tây Nguyên thời chông Mỹ.
Ý 2: Ca ngợi tinh thần chiến đấu của người dân Tây Nguyên tiêu biểu là dân
làng Xôman. Qua đó tô cáo tội ác của đê quôc và chính quyền Sài gòn cũ.
214