Page 30 - Bệnh Cao Huyết Áp
P. 30

làm cho các tế bào cơ trơn bị bóp nghẹt và có thể bị hoại
        tử.  Giai  đoạn  này  tổn  thương  phổ  biến  là  xơ các  tiểu
        mạch,  làm  hẹp  lòng  các  động  mạch,  làm  tăng  sức  cản
        ngoại  vi,  gây  tăng  huyết  áp.  Nếu  có  thêm  xơ  vữa  các
        động mạch lớn thì hai bệnh này sẽ càng thúc đẩy nhau
        phát triển.
            Trên lâm sàng có các triệu chứng sau:
            Mạch nhanh: Nhiều hay ít do tăng tần số tim.
            Mạch căng:  Sờ vào mạch có khi như sờ vào xe điếu.
        Mạch căng do hai lý do, một là do xơ cứng thành động
        mạch, hai là do áp lực trong lòng mạch tăng.
            Khám  đáy  mắt:  soi  đáy  mắt  thấy  được  tình  trạng
        động mạch. Theo Keith, Wegener và Barker, có bốn độ:
            Độ 1: Các động mạch hẹp long dáng cứng;
            Độ 2: Động mạch bắt chéo tĩnh (dấu hiệu Gunn);
            Độ 3; Xuất tiết và xuất huyết võng mạc;
            Độ 4: Phù gai thị.
            X-quang  tìm  thấy  quai  động  mạch  chủ  vồng  cao,
        giãn rộng và to hơn bình thường.

            Thận
            Cao huyết áp gây tổn thương thận. Tổn thương này
        diễn  ra  từ từ  trong  một  thời  gian  dài.  Thường  ở  giai
        đoạn đầu thận bù trừ tốt nên không có triệu chứng gì.
        Động  mạch  thận  dần  dần  bị  xơ  hoá  (Nephro-
        Angioselerose), lâu ngày sẽ xơ teo dần hai thận.
            Trong cao huyết áp do xơ hoá động mạch thận nên
        cung lượng thận giảm, còn  có độ lọc của cầu  thận vẫn
        bù  trừ  tốt,  nhưng  lâu  dài  gây  tổn  thương  (hyalinose)
        từng giai đoạn ở cầu thận.
            Vữa xơ động  mạch  thận  có  thể xảy ra  trên  những


                                'Sệ.nh cao hKtfèi áfi oà cách điều it-ị  31
   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35