Page 405 - AllbertEstens
P. 405

B 4 .   Đ Ờ I   T Ô I   L f l   M Ộ T   B O Z O N :






                                                                                                   C f l C I   C H U Y Ệ N   C Á C   " H 0 T   H I G G S

























                                                                                                                                                     Peter Higgs









                                                                                         (Trong "International Journal of Modern Physics A", Vol.



                                                                         17, Suppl., 86 - 88, 2002).






                                                                                         Câu chuyện bắt đầu vào năm  1960 khi Nambu, với hứng




                                                                        khỏi về lý thuyết siêu  dẫn BCS, đã nêu lên các mô hình tương



                                                                        đối  tính  bất biến  chiran  cho  các  fecmion  không khối  lượng có




                                                                        tương tác  mà  ỏ  đó  sự  phá  vỡ  đối xứng tự phát đã  tạo  ra  khối



                                                                        lượng của các  fecmion  (tương tự của khe  BCS).  Cũng vào thời




                                                                        gian đó, Jeffrey Goldstone đã bàn về sự phá vỡ đốỉ xứng tự phát




                                                                        trong các mô hình chứa các trường vô hưóng sơ cấp (như trong



                                                                        lý thuyết Ginzburg-Landau). Tôi bắt đầu chú ý đến vấn để làm




                                                                        thế nào để tránh được một đặc điểm của cả hai loại mô hình là



                                                                        dường như loại trừ sự liên quan của chúng vói thế giới thực, cụ




                                                                        thể là sự tồn tại trong phổ các bozon spin zêrô khối lượng không




                                                                        (các bozon Goldstone). Vào năm  1962, đặc điểm này của các lý



                                                                        thuyết trường tương  đối tính  đã  trỏ thành chủ  để của  định lý




                                                                        Goldstone.





                                                                                         Năm 1963, Philip Anderson đã chỉ ra rằng trong chất siêu




                                                                        dẫn, tương tác điện từ của kiểu (mode) Goldstone biến nó thành




                                                                        một "plasmon".  Ông ức đoán rằng trong các mô hình tương đối



                                                                        tính,  "khó  khăn  khối  lượng  zêrô  Goldstone  không  phải  là




                                                                        nghiêm trọng, vì ta có cơ triệt tiêu nó như đối vối bài toán khối



                                                                        lượng zêrô Yang-Mills". Tuy nhiên, vì ông không nói địĩìh lý có




                                                                        thể thất bại hay là một phản thí dụ tường minh cho nên kết quả











                                                                                                                                                                                                                                                            A f \ 0
   400   401   402   403   404   405   406   407   408   409   410