Page 407 - AllbertEstens
P. 407
Swieca. Hôm sau, Stanley Deser đã sắp xếp để tôi nói chuyện ỏ
Harvard, ỏ đây một cử toạ cũng đầy nghi ngồ không kém đang
chờ nghe; và Sidney Coleman đã nói với tôi (nãm 1989) rằng họ
"đang vui thích chờ xé ra từng mảnh cái thằng ngu này dám
nghĩ rằng hắn có thể vượt qua định lý Goldstone".
Các xêmina của tôi ỏ Princeton và Harvard đã thành công
thuyết phục người ta rằng tôi không phải là một thằng rồ,
nhưng rõ ràng chúng đã thất bại khi muốn làm cho ngxíời ta tin
rằng việc kết hợp các lý thuyết cỡ với sự phá vỡ đốì xứng tự phát
có thể có ích. Ở Harvard, sau xêmina, Shelly Glashow đã chúc
mừng tôi vể "một mô hình hay” nhưng ông không thấy nó có thể
chữa được những khó khăn của mô hình điện - yếu của ông năm
1961. Việc này dành cho Weinberg và Salam vào năm sau.
Trong khi đó, Brout, Englert và tôi đã cô" gắng tìm ra một áp
dụng trong sự phá vỡ đối xứng vị hađron (hadronic flavour)
nhưng không có kết quả.
Năm 1972, sau chứng minh Veltman - 't Hooft về tính tái
chuẩn hoá của các lý thuyết cỡ, cuộc đời tôi như một bozon đã
thực sự bắt đầu. Tại Hội nghị quốic tế về vật lý năng lượng cao ỏ
Fermilab mùa hè năm ấy, Ben Lee, báo cáo về chiếc xe của dàn
nhạc diễu hành lý thuyết cỡ đã bắt đầu lăn bánh, đã gắn tên tôi
vối mọi cái có liên quan đến sự phá vỡ đối xứng tự phát, trong
đó có Mmezon Higgs".
Năm 1976, khi LEP đang được quy hoạch, nó đã được
John Ellis, Mary K. Gaillard và Dimitri Nanopoulos giới thiệu
với các nhà thực nghiệm ỏ "dạng hiện tượng luận của bozon
Higgs". Do tính chất không rõ rệt của dạng đó, các ông này đã
kết luận rằng "chúng tôi không khuyến khích những cuộc tìm
kiếm thực nghiệm lốn về bozon Higgs, nhưng chúng tôi cảm
thấy rằng những người đang tiên hành những thí nghiệm công
405