Page 328 - AllbertEstens
P. 328
chảng bao lâu nữa sẽ giải được tất cả các vấn đề đó".
Người đã tìm ra cách giải thích hàm sóng ngày nay đã trỏ
thành chính thống là Max Born, người đứng đầu trường phái
Gõttingen nổi tiếng về sự ưa thích toán học và rất khéo léo xây
dựng những hình thức luận toán học rất tinh tế. Trong một công
trình vào tháng Sáu năm 1926 vể cơ học lượng tử của các va
chạm, dựa trên ý tưỏng của Einstein về mốì liên quan xác suất
giữa trường sóng và các lượng tử ánh sáng, ông đã đi đến kết
luận là có thể hiểu I Vị/(x, y, z, t) 12dxdydz như là xác suất tìm
thấy, ở thòi điểm t, hạt trong thể tích dxdydz chiếm khoảng
không gian giữa X và X + dx, y và y + dy, z và z + dz và như vậy
I Iị/(x, y, z, t) 12 là mật độ xác suất, còn \Ị/(x, y, Z, t) có thể gọi là
biên độ xác suất tìm thây hạt ở điểm (x, y, z) vào thời điểm t*\
Điểu này cũng có nghĩa là không thể giải thích hàm sóng như là
biên độ của một trường vật chất nào đó kiểu như trường điện từ
hay trưòng hấp dẫn. Cái gọi là "sóng v ật chất" cần phải
được th ay bằng "sóng xác suất".
Cách giải thích hàm sóng của Born đã mang lại cho xác
suất một vai trò mới trong vật lý học. Nó không chỉ được sử
dụng để mô tả các quá trình xẩy ra theo cách hoàn toàn nhân
quả (mặc dầu không có đủ thông tin về các quá trình đó như
trong vật lý thống kê cổ điển), mà còn để mô tả các quá trình
lượng tử, ở đây tính nhân quả chỉ là đòi hỏi đối với các xác suất
và các giá trị trung bình được xác định bởi chúng. Như Born đã
viết trong một công trình vào tháng Bẩy năm 1926 (tiếp theo
công trình đầu tiên về giải thích xác suất hàm sóng) (dẫn theo
[7], tr. 48): "Chuyển động của các hạt xẩy ra theo các định luật
Một cách chặt chẽ, như đã nhấn mạnh trong [4], tr. 188, đúng hơn phải gọi là "biên
độ xác suất".
326