Page 325 - AllbertEstens
P. 325
Đó là chuyện bình thường và chẳng thể gây ấn tượng gì to lốn,
song rõ ràng là Schrödinger đã phải suy nghĩ thêm sau đó.
Vài tuần sau, Schrödinger đã lại báo cáo ỏ hội thảo, lần
này ông bắt đầu bằng câu nói: "Ông bạn đồng nghiệp Debye bảo
tôi phải có một phương trình sóng; vâng, tôi đã tìm ra một
phương trình".
Đó là phương trình sau đây - phương trình Schrödinger
trạng thái dừng - mà ngày nay không một người nào đã học đại
học về vật lý lại không biết:
— v2 <j> + v < |> = Eộ, (4)
2 m
V2 là toán tử Laplaee (= cP/õx2 + (Pỉdy2 + cP/ôy2), V(x, y, z)
là thế năng của trường lực tác dụng lên hạt (có khối lượng m),
V|/(x, y, z) là hàm sóng (không phụ thuộc thời gian), E là năng
lượng toàn phần của hạt.
Mở rộng phương trình (4) cho trường hợp trạng thái không
dừng, Schrödinger đã thu được phương trình sóng tổng quát sau
đây (được đưa ra trong bài cuối cùng của công trình khám phá
ra cơ học sóng):
i / j ậ ũ . = _ A l V 2 v ư + v v (5)
di 2 m
trong đó \|/(x, y, z; t) là hàm sóng tổng quát (phụ thuộc thòi
gian).
Cơ học sóng của Schrödinger ra đòi đã được các nhà vật lý
nhiệt tình tiếp nhận, vì nó cho phép người ta giải quyết các vấn
để cơ học lượng tử bằng các phương pháp đã quen biết của vật lý
toán. Theo Planck [4], điểu quan trọng nhất của lý thuyết của
Schrödinger là nó đã đưa các định luật lượng tử vào một hệ
phương trình vi phân quen thuộc mà với sự hỗ trợ của toán học,
Ä9.3