Page 66 - Nhân Vật Lịch Sử Tiêu Biểu
P. 66
thời kỳ này luôn là nơi đứng chân của các lực lượng vũ trang trọng
yếu nhất trong cả thòi bình lẫn thời chiến. Với nhận thức đúng đắn
việc định đô “cốt để mưu việc lớn, chọn chỗ ở giữa, làm kế cho con
cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh tròi, dưới theo ý dân... vận
nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”1, nhưng củng nhận thấy Thăng
Long không phải nơi hiểm, nên để bảo vệ nền độc lập tự chủ, đi đôi
với đề cao cảnh giác, chú trọng sửa sang giáo mác để để phòng việc
không ngờ, thì việc đắp thành, dựng lũy để bảo vệ kinh đô được đặt
ra nghiêm túc. Ngay trong năm 1010, Lý Công u ẩ n đã cho đắp
thành và đào hào cả ở bốn mặt thành; mở bôn cửa, phía đông là
cửa Tường Phù, phía tây là cửa Quảng Phúc, phía nam là cửa Đại
Hưng, phía bắc là cửa Diệu Đức. Năm 1014, vua cho đắp thêm
thành đất ở bôn mặt kinh thành Thăng Long. Việc xây dựng thành
lũy nhằm mục đích biến miền đất bằng phẳng, không có núi non
hiểm trở này thành một cản cứ phòng thủ vững chắc, chông đánh
lâu dài kẻ địch từ ngoài đến trong điều kiện chiến tranh thòi này
chỉ có vũ khí bạch binh như cung nỏ, giáo, mác...
Với sự kiện dời đô vĩ đại của Lý Công u ẩ n , Thăng Long từ đây
đã thực sự vươn mình mạnh mẽ tiêu biểu cho tinh thần tự chủ và
nền vàn hiến đầy tự hào của dân tộc Đại Việt. Từ đây, nước Đại
Việt đàng hoàng “cùng Hán, Đường, Tổng, Nguyên mỗi bên làm
chủ một phương”. Thòi kỳ tiền Thăng Long với những tiền tố" tư
tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của người Việt đã hòa vào sức
sông mới của kinh đô Thăng Long tự chủ. Và trải hàng nghìn năm
sau, Thăng Long - Hà Nội đã viết nên những trang sử cực kỳ vẻ
vang cho riêng mình và cho cả đâ't nước, để lại những di sản lịch sử -
văn hóa cực kỳ quý báu cho dân tộc, trong đó có di sản lịch sử - văn
hóa quân sự mang những nét râ't riêng của sự nghiệp bảo vệ, giải
phóng Thăng Long - Hà Nội.
1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I,
tr. 241.
68