Page 152 - Nhân Vật Lịch Sử Tiêu Biểu
P. 152
Lợi lãnh đạo nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động từ Lam Sơn ra
các vùng lân cận chủ yếu là miền núi phía tây Thanh Hóa. Lợi
dụng quân đông, giặc Minh liên tiếp mở các cuộc tiến công lỏn,
nghĩa quân phải rút vào núi Chí Linh (núi Pù Rinh, xã Giao An,
huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa). Tại đây, do bị quân thù bao
vây chặt, nghĩa quân gặp muôn vàn khó khăn, lương thực thiếu
thôn, phải đào củ và hái lá rừng ăn để sống. Nhờ sự hy sinh của Lê
Lai và đội cảm tử, Lê Lợi và nghĩa quân được giải vây, chuyển lên
hoạt động ở Quan Da (Quan Hóa, Thanh Hóa).
Tháng 11 năm 1420, Lê Lợi tố chức nghĩa quân “đặt mai phục
ỏ bến Bổng chờ giặc, chém giết quân giặc nhiều vô kể, bát được hơn
trăm con ngựa... Tên Đồng tri châu Quỳ Châu là cầm Lạn dẫn bọn
Lý Bân, Phương Chính đem hơn 10 vạn quân, theo đường Quỳ
Châu đến thẳng Mường Thôi. Vua phục kích chúng ở Thi Lang.
Bân và Chính chỉ chạy thoát được thân mình"1. Tiếp đó, Lê Lợi chủ
trương mở đường xuống Lỗi Giang (thuộc Bá Thước, cẩm Thủy và
Vĩnh Lộc). Cuối năm 1422, sau trận Quan Da, Lê Lợi rút quân vể
núi Chí Linh. Khi nghĩa quân đang khó khăn chưa thể đánh tiếp
thì cũng là lúc quân Minh bị tổn thất, mệt mỏi, do phải liên tục lo
đốì phó, hai bên đành chấp nhận tạm thòi hòa hoãn. Tranh thủ
thòi kỳ này, Lê Lợi cùng các tướng sĩ trở lại vùng đất Lam Sơn “bề
ngoài giả thác hòa thuận” để bên trong “lo rèn chiến cụ” và “quyên
tiền mộ lính”, củng cố lực lượng, khai hoang, sản xuất lương thực.
Quân Minh ráo riết tìm mọi biện pháp dụ dỗ, mua chuộc chia rẽ
nội bộ nghĩa quân nhưng không hiệu quả. Nhờ tinh thần nỗ lực
lớn, chỉ sau một thời gian, Lê Lợi và các tướng đã chỉ đạo quân sĩ
sản xuâ't, tích lũy được một khối lượng lương thực cất giấu trong
các kho bí mật; đồng thời tuyển mộ thêm quân sĩ, bổ sung vũ khí
1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II,
tr. 244-245.
154