Page 8 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 8
THỜI ĐỢI THƯỢNG cổ
KỶ TÍỀN SỬ
Cách đây khoảng bô"n ngàn năm - tức 2000 năm trước công
nguyên, tại miền đông châu Á, giáp biển, trong khi dân tộc Hán
định cư trên khu vực giữa Hoàng Hà và Dương Tử giang, dân tộc
Miêu vùng bắc Hoàng Hà thì tại miền nam Dương Tử giang có
nhiều bộ lạc thuộc nhiều sắc tộc lập nghiệp. Người Hoa gọi chung
là Bách Việt: Ô Việt ở Triết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương
Việt ở Giang Tây, Nam Việt (hay Đông Việt) ở Quảng Đông (ngày
nay người Hoa còn gọi tỉnh Quảng Đông là tỉnh Việt). Đất nước ta
xưa -gồm Bắc Việt và bắc Trung Việt ngày nay là Lạc Việt.
Bắc sử có chép: Thòi đại Thần Nông, ở miền nam Trung Quốc
có nước Xích Quỷ, sau chia ra làm Bách Việt. Xích Quỷ không có
nghĩa là con quỷ đỏ. Xích là màu đỏ, theo Ngũ hành thuộc Hoả,
phương nam. Quỷ là một ngôi sao trong nhị thập bát tú, ở về
phương nam. Gọi là Xích Quỷ để chỉ khu vực rộng lớn xa xám ở
phía nam, không hẳn là tên một nước.
Dân Bách Việt đã sớm biết trồng cây lúa nước. Người Hán
khi nói đến Việt thì dùng chữ Việt bộ mễ , có nghĩa là bèn
(mễ là gạo). Sau người Việt tự cường, dùng chữ Việt ^ là vượt.
Các xứ Bách Việt được thiên nhiên ưu đãi, ít phải chông chọi
với thú dữ và tranh chiếm đất đai lẫn nhau, không cao cường võ
nghệ, không có khí giới sắc bén nên bị người Hán phương bắc thôn
tính, rồi dần dà đồng hoá với họ. Xứ ta ở miền nam xa xôi không bị
đánh chiếm sớm, sau cũng sa vào vòng Bắc thuộc hơn một ngàn
năm. Nhưng do có ý chí dân tộc hùng mạnh, người nước ta lại khôi
phục được nền độc lập.
Tự hào về việc sớm biết trồng lúa nưóc trong khi người Hán
còn du mục và có trồng ngũ cốc thì năng suất thấp và ít chất bổ
dưỡng, người nước ta xưa chép sử nói; Vua khai quốíc là con cháu
Thần Nông, được phong cai trị miền nam gồm châu Kinh và châu
Dương (Kinh Dương vương), địa giới phía bắc đến hồ Động Đình,
phía tây giáp Ba Thục. Vua xứ Lạc (Lạc Long Quân) lấy con gái