Page 12 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 12
thòi với Đế Nghi bên Trung Quốc đến năm Quý Mão tức năm thứ
37 đời Chu Noãn vương (2869 - 258 tr. CN), cộng 2622 năm, mỗi vị
ỏ ngôi 240, 250 năm. Vô lý! Thời gian này, bên Trung Quốic có các
triều đại Thần Nông, Ngũ Đế, Đường, Ngu, Hạ, Thương, Tây Chu,
có hàng một trăm mấy mươi vua. Ngọc phả đền Hùng ỏ xã Hy
Cương, Phú Thọ, do Nguyễn Cô" soạn năm 1472 chép dòng vua
Hùng khoảng trên năm mươi đòi, tồn tại trên 2500 năm. Theo một
câu đối thò ở đền Hùng thì triều Hùng gồm bô"n mươi hai vua. Các
điều này đều không đủ tin.
Việt sử lược chép: Đời Chu Trang vương (697 - 682 tr. CN, ở
bộ Gia Ninh có ngưòi giỏi học thuật, thu phục được các bộ lạc, lên
làm vua, xưng là Hùng vương. Xét có thể gần sự thật lại phù hỢp
với thần tích xã Tiên Lát, Bắc Giang chép vua Hùng dựng nước
năm 660 tr. CN.
Sử nước ta có lẽ chỉ mới bắt đầu từ đây. Còn về trước nữa đều
là truyền thuyết thời đại hồng mang, muôn phục nguyên cần phải
bổ sung tài liệu khảo cổ học.
Khoảng thế kỷ thứ VI hay sớm lắm là thế kỷ thứ VII tr. CN,
dân Lạc Việt có người anh hùng ở bộ Gia Ninh (Vũ Ninh, Bắc Ninh?)
đa mưu túc trí, tài cao dũng lược, thu phục được các bộ lạc, khai cơ
sáng nghiệp, dựng nên một nước có quy mô rộng lớn, tổ chức hoàn bị,
tự xưng làm vua, lấy hiệu là Hùng vương, sử chép quốc hiệu là Văn
Lang. Có thể vì người Trung Quốc thấy người nước ta xâm vẽ mình
nên gọi là người Văn Lang, đất nước cũng gọi là Văn Lang. Đô kỳ
đóng ở vùng phủ Lâm Thao, Phú Thọ bây giò, đời sau di về huyện
Bạch Hạc, Vĩnh Yên, xưa đều thuộc Phong Châu.
Giúp vua trị nước có các Lạc hầu, Lạc tướng. Con trai vua
gọi là quan lang, con gái gọi là mỵ nương. Quan coi việc gọi là bồ
chính. Lãnh thổ gồm Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ ngày nay đến đèo
Hải Vân. Đất nước chia làm mười lăm bộ (tựa như tỉnh). Quốc sử
có chép tên và vị trí các bộ. Tên bộ chữ Hán gần với tên các hạt
sau này, có thể là do người sau tự đặt ra.
Đòi bấy giò đời sông đơn sơ, phong tục giản dị. Dụng cụ còn
bằng đồng thau, chưa biết đến dùng sắt. Buổi đầu chưa có chữ,
người ta thắt nút dây hay khắc vạch dấu trên tre, gỗ, xương làm
dấu vết sự việc. Gia đình tổ chức theo phụ hệ, có tục ăn trầu,
nhuộm răng đen như người Thái, người Mã Lai. Y phục thường thì
đàn ông đóng khô", đàn bà mặc yáy, khác với người Hán bên Trung
Quốic. Phần đông dân chúng hành nghề đánh bắt cá sông và biển.
12