Page 63 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 63

bằng đá ở thời  đồ đá  mới, cùng  những  bộ  xương người  ngồi  xổm.  Cũng
         sách  ấy  ghi  ở nơi  gợi  là  Đá  Nhảy  ở  bờ  biển  có  những  tảng  đá  lớn  như
         tuồng người rắc ra và trên một táng đá thấy có dấu chân  người  rất to lớn.
         Phải chăng đấy là dấu chân người tiền sử?
              Cũng nên  kể thêm ở trong cùng  khu vực Thượng Lào ấy gần Xiêng
         Khoảns có Cánh Đồng Chum còn nhiều di tích trụ đá lớn thời tiền sử. Có
         3 nhóm  16, 24 và  120 cái, đẽo tròn ở ngoài  và đục rỗng ở trong hình cái
         chum, còn thấy cả vệt đẽo của đồ dùng. Những chum này  bằng sa thạch,
         ớ  trên đường đi Siu thì bằng đá rán granil và đường Mường Phan thì bàng
         dá  vôi,  đường  Mường Tsé  bằng dá  schiste.  Khuôn  khổ  to  nhỏ  hơn nhau.
         Có cái cao tới 2,9m đường kính  l,28m. Người  Lào coi những chum này là
         vật linh thiêng không dám dụng tới.
              Ta thấy khu vực từ Thượng Lào ra tới  bờ Đá Nhảy của vùng Thanh
         Hoá.  đã  có đủ  bằng  chứng  là  có  người  tiền  sử cư ngụ.  Những  người  ấy
         dính  gì tới  người Giao Chỉ chăng?  Hoặc phải  chăng dây là người  thuỷ tổ
         của  giống  Giao  Chỉ?  Có  lẽ  phải  chờ  điều  kiện  và  có  phương  tiện  làm
         việc khai quật mới có thể trá lời được.
              Riêng về kỹ thuật đồ đá này, ta thấy cũng như kỹ thuật đồ dồng, sự
         giũ’ bí mật  nhà nghề dã  là  nguyên  nhân chính  khiến  cho cuộc  tiến  hoá  ở
         thời  thượng cổ chững  lại,  không  giống  như đà tiến  hoá  chung  ở các  khu
         vực châu  Âu.  Mà  sở dĩ có sự bí mật  nhà nghề  cùng dành  riêng  cho một
         bộ lạc nào làm nghề thỏi, cũng lại vì mê tín dị  đoan nữa.  Công dụng của
         đồ đá dể phục vụ nhân  sinh đã chỉ  có về  sau  này vào thời  cổ thôi.  Còn ở
         thời  thượng  cổ  nó  là  tôn  giáo.  Những  trụ  đá,  những  đá  chồng  do  hiện
         tượng tự nhiên bày ra đã dược người xưa hiểu là do huyền lực thần linh để
         cho  những  đá  ấv  có  tính  cách  thiêng  liêng,  không  dám  phạm  tới  như
         những đá khác trong các núi  non, hoặc  lẫn vào các hang động. Chỉ những
         người  làm  nghề  chuyên  môn  mới  phàn  biệt  nổi  những  loại  đá  thiêng  để
         tránh đụng tới kẻo gặp tai họa. (Tai hoạ không những cho đương sự mà có
         thể cho cả bộ lạc nữa).  Cho nên nghề làm đá chỉ cần sức khoẻ và phương
         tiện, ai cũng làm được cá, vậy mà người ta dã lự hạn chế đi.
               Sau này, đến tận gần đây, dân chúng cũng vẫn còn có người tin rằng
         có những cục đá thành tinh chôn sâu dưới đất từ trước hoặc  lõ không biết
         đem  về  nhà,  nay  có  quấy  phá  không  yên  thì  phải  cúng  bái  rồi  đem  tha
         xuổng  sông.  Bới  có  cái  niềm  sọ'  hãi  ấy  từ  rát  lâu  dời  nên  tư gia  không
         dùng đến đá vào việc xây dựng, dù  là dùng  làm đá tảng kê chân cột.  Mà
         chỉ có những nơi thờ tự, có thần linh chế ngự được yêu tà thì người ta mới
         dám  dùng  dá  để  làm  bia.  làm con  rùa dội  bia,  làm  tượng  phỗng  đá.  voi

         66
   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68