Page 61 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 61

Không nói đến nội dung những hình điêu khác. Chỉ nguyên việc tìm
          hiếu  người  xưa đã dùng  những công  cụ  gì  để khắc  hình  tương đối  là rất
          linh  xảo trên  mặt  và thành  trống, cùng  những Cíích thức  làm  ra sao cũng
          dã thấy nó phải trải qua một kỹ thuật đồ gốm rồi mới tới dược.
                Muốn  Icàm  được  những  dồ  gốm  như  nồi,  lu  tròn  thì  phai  dùng  kỹ
          thuật nặn và xoay tròn để tiện đứng và phải  có khuôn gỗ.  Nói dên khuôn
          gỗ lại  không thể quên được diều người ta cần phải có những dụng cụ sắc
          bén đê cưa và gọt gỗ. Dù dụng cụ ấy bằng đá thì cũng phải mài mỏng đến
          độ bén cần thiết.
                Những  hình  khắc  trên  mặt  trống,  nhỏ  chỉ  vài  ba  phân  mà  nét  vẽ
          những  con  hươu  với  sừng,  những  con  gcà  với  cánh  đcã  thật  khôn,  có  lẽ
          người đời  nay cũng chi’ vẽ sắc sáo nổi  dến thế mà thôi.  Hình thì đều nhau
          nhưng  đặt  cách  khoảng  không  đều  nhau  chứng  tỏ  rằng  có  mẫu  để  khắc
          dần.  Và  phải  khắc  trên  cốt  sáp  ong  dể  in  hẳn  vào  khuôn  trước  khi  đúc.
          Khuôn  nặn  bàng  đất  sét  khi  hấp  nóng  thì  sáp  chảy  tan  đi  hết  để  chừa
          khoáng trống cho đồng chảy vào.
                Với  bàn  tay  khéo  léo  và  những  đồ  dùng  chắc  là  nhỏ  bé,  người  ta
          làm dược  những  nét  ấy  thì  không  phải  là  không  làm  nổi  những  đồ  trang
          sức  hay những dồ gì  khác.  Tim  nhiều  và tìm kỹ ắt  thấy.  Hoặc giả không
          thấy thì đúng là người xưa dã coi chất kim khí này là quá thiêng liêng, chỉ
          dành riêng để làm những vật thiêng liêng mà thôi.
                Nếu thế, dịa vị người thợ khéo trong xã hội  cổ này đã phải thế nào?
          Hẳn  là tôn quý, chỉ một dòng người  nào mói dược  làm,  coi  như việc sửa
          soạn  đ ể   dâng cúng,  nên  nghề không phổ  biến, và trong  khi  nghề kim  khí
          đcã liến thì ở  xã hội ngoài, người ta vẫn dùng dồ dá như xưa.
                Theo  nhận  xét  ấy,  ta  hiểu  hiện  tượng  chậm  tiến  của  khu  vực  đã
          không phái  là đến  1,2 thế kỷ tr. CN  mới có kỹ thuật đồ đồng mà có thể là
          có  dã  lâu.  Nhưng  tại  óc  mê  tín  dị  đoan  quá  nặng  của  khu  vực,  lại  được
          nhóm bộ lạc chuyên môn có thể còn vì quyền lọi mà đẩy thêm sâu nữa để
          giữ độc quyền và bí mật sản xuất nên tuy có từ lâu, mà có rồi thì đứng lại
          nguyên chỗ cũ.
                Đặt minh vào sống trong khung canh ấy, ta có thể phỏng đoán ràng
          mỗi khi làm việc đúc một cái trông ắt dã phải có lễ  lạt linh đình, ăn  uống
          phè phỡn, rồi ca vũ nhạc rộn ràng, hàng rất nhiều ngày và nhân dân thì từ
          khắp nơi  dã  phải  đến  đóng góp cône  quá,  có  khi  cầu  nguyện  đèm  ngày
          nữa.  Rồi  người  thợ cả thủ  vai  một thầy  pháp luyện  kim  thạch,  dã có thể
          có  những  y  phục  rợn  người  dể  làm  nhiều  phù  phép  vào  lò  nấu,  cho đến
          hoa-mắt dàn chúng lên.
          64
   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66