Page 142 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 142

146           VỂ CÁC TỔNG Tư LỆNH, Tư LỆNH  CHIẾN TRƯỜNG...



          thông  báo  cho  nhau  tình  hình  địch  -  ta,  khó  tổ  chức  phối  hợp,
          hiệp đồng và xử lý tình huống trong chiến đấu.
              Về  vũ  khí,  hầu  hết Quân  đội  ta  được  trang bị  bằng  vũ  khí

          thô sơ.  Năm 1946, cả nước đã có 58 công binh xưởng nhung chỉ
          có khả năng sản xuât một sô" loại vũ khí thô sơ, lưỡi lê, đại đao,
          cuốc xẻng, một số mìn, lun đạn, bom ba càng lìhưng không bảo
          đảm an toàn.  Cho  đến khi ngành  quân giới hình  thành,  ta  mới
          sản xuất được một số vũ khí đạn dược.  (Năm 1954, ngành quân
          giới cho ra đời 785 súng bazôka, 1.848 súng cối, 243 phóng bom,

          486 SKZ, 2.030 phóng liru, 225 súng ưường, 3 triệu viên đạn các
          loại, trong đó có 6.625 viên đại đại bác 75mm).
              Tiềm  lưc  lớn  nhât  của  ta  là  ở  trong  dân,  nhvmg  gay  cân
          nhâl  là  dân  ta  vừa  thoát  khỏi  nạn  đói  thảm  khốc,  cuộc  sống

          chưa  hổi  phục,  nhiều  nhà  hầu  như  khánh  kiệt.  Kho  bạc  Nhà
          nước  còn  vẻn  vẹn  1.230.000  đồng  Đông  Dương,  gần  một  nửa
          rách  nát  không  lưu  hành  được,  không  đủ  khả  năng  trang  bị
          cho  quân  đội  mỗi  người  một  bộ  đồng  phục.  Bọn  Tưởng  còn
          tung  các  loại  tiền  Quan  kim,  Quốc  tệ  đã  mâ"t  giá  làm  nhiễu

          loạn  thị  trường.  Cán bộ,  chiến  sĩ có  gì  mặc  năy:  “zío anh rách
          vai,  quần  tôi có hai m iếng  vá",  “Vệ,  áo  quần  rúm   ró  đến  lôi
          thôỉ’.  Từ  lâu  đâ"t  nước  ta  bị  xóa  tên  trên  bản  đồ  thế giới,  trở
          thành  xứ Đông  Dương thuộc  Pháp.  Đâ"t nước  chưa  bị  bao  vây

          nhưng quan hệ  quốc  tế chưa  có  điều  kiện rộng mở.  Nhân loại
          tiến  bộ  trên  thế giới,  trong  đó  có  cả  phong  trào  cộng  sản  và
          công  nhân,  chưa  hiểu  rõ  tính  chất  cuộc  đấu  tranh  cách  mạng
          của nhân dân ta nên ta chưa tranh thủ được sự chi viện quốc tế
          về tinh thần và vật châ"t.
              Tại  các  cuộc  đàm  phán,  ta  đã  có  thái  độ  nhân  nhượng

          nhimg với dã  tâm xâm lược nước ta  một lần nữa,  ta  càng nhân
          nhượng giặc Pháp càng lấh tới, ngày 18-12-1946, Ban Thường vu
   137   138   139   140   141   142   143   144   145   146   147