Page 124 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 124

128          VỀ  CÁC TỔNG Tư LỆNH, Tư LỆNH  CHlẾN TRƯỜNG...



           Sainteny - Uy viên Cộng hòa Pháp về nước, Valluy đảm nhiệm
           cả  chức  Uy  viên  Cộng  hòa  thay  Sainteny.  Khi  Leclerc  từ  chức
           cũng bàn giao luôn quyền Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh cho
           Valluy  và  ữên  cơ  sở  đó,  Valluy  được  bổ  nhiệm  chức  Tổng  tư
           lệnh vào tháng 7-1946.

               Ông ta  được trọng vọng vì  so với lớp Leclerc, Salan, ông có
           tuổi  đời  lớn hơn.  Salan  sinh  năm  1900,  Leclerc  sinh  năm  1902,
           Valluy sũih năm 1899. Salan vẫn gọi ông là  “mon vieux camarade
           (ông bạn già)”. Valluy  tốt nghiệp Trường Võ  bị  Saint-Cyr  khóa

           La  Payette  năm  1917  -  1918.  Năm  1937  đã  phụ  trách  công  tác
           tình  báo  của  Bộ  Thuộc  địa  tại  vùng  I  ở  Thượng  Hải,  chuyên
           theo dõi đánh cắp tin tức khu vực Viễn Đông của Nga, Bắc Thái
           Bình Dương và các nước Nhật Bản, Trung Hoa.  Ngày 7-11-1940,
           người  ta  thấy  ông  ta  đeo  lon  đại  tá,  sau  đó  thăng  thiếu  tướng

           Tham  mưu  trưởng  Tập  đoàn  quân.  Những  ngày  chiến  đấu  ở
           châu  Phi,  ông ta  là Tham  mưu  trưởng Quân đoàn  B  của  tướng
           De Lattre de Tassigny. ông đã trực tiếp chỉ huy đơn vị tác chiến
           trên chiến trường châu Âu và cùng quân Đồng minh đánh đuổi

           phát xít Đức sang tận sào huyệt tại nước Đức.
               Cuộc  đời  binh  lửa  đã hình  thành  ở  ông ta  “đức” hiếu  chiến
           đến  cực  đoan,  luôn  coi  hành  động  quân  sự là  biện  pháp  hàng
           đầu và duy nhâl, luôn tìm cách khiêu khích gây hấh, tạo cớ thổi
           bùng ngọn lửa chiến tranh ở Việt Nam.
               Có  chăng một lần  duy nhất ông ta  khuyên Sainteny  không

           nên  vội  vàng  chuyên  ữụ  sớ  Uy  viên  cộng  hòa  từ  Ngân  hàng
           Đông  Dương  về  phủ  Toàn  quyền  ngay  khi  Lư  Hán  rời  khỏi
           Đông Dương chắc hẳn là  do vừa “chân  ướt chân ráo" đưa  quân
           lên  Hà  Nội,  lực  lượng  còn  mỏng,  chưa  kịp  “bài binh  bô' trậrì',

           trong khi đó quân Tưởng không chịu rút hết quân trong tháng 3
           theo  quy  định,  cố tình  trì  hoãn  đến  tháng  5  mới  rút  hết  khỏi
   119   120   121   122   123   124   125   126   127   128   129