Page 123 - Văn Ôn Thi Đại Học
P. 123
Ba khổ thờ trước đó nhà thơ đã dành trọn để tạc nên các
bức tượng Phật bằng nghệ thuật ngôn từ. Có vị trán trỏ, nung
nấu suy tư, đau khổ dữ dội đến mức như muôn phá tung cả
thân xác "mắt giương", ’’mầy nhíu xệch", "môi cong chua chát”,
"gân vặn bàn tay". Có vị "xương trần chân với tay", đang "trầm
ngâm đau khổ sâu vòm mắt” và như có lửa đốt từ bên trong. Có
vi lại "chân tay co xếp lại" như thể thai nhi đang nằm trong
bụng mẹ.
II. Nỗi đau khổ cháy bỏng
m
Thật đúng là "mỗi người một Ưẻ, mặt çon người". Tất cả
đang mang trong mình nỗi khổ đau đến tột cùng, tưởng chừng
như không thể chịu đựng nổi. Những chúng sinh đau khổ đó tụ
hội lại đây thành một cuộc họp lạ lùng trong vật vã. Nhà thơ
suy ngẫm và thấy cuộc gặp gõ của mưòi tám pho tượng là một
"cuộc họp ỉạ lùng trong vật vă'\ Tác giả không dùng trăm khổ
đau mà là "Trăm ưật uã" làm cho nỗi đau khổ hiện ra vừa đa
* t
dạng, vừa cụ thể vừa dữ dội. Đây là "cuộc họp lạ lùng" của các
vị La Hán hay là hĩnh ảnh hội tụ của trăm nghìn vật vã khổ
đau trên trần thế con người? Những nỗi đau đã kết lại thành
một dòng sông ",đau thương" cuồn cuộn chảy và bốc "cháy" dưới
bầu trời.
"Tượng khồng khóc cũng đổ mồ hôi". Đây là một câu thơ rất
đặc sắc vừa đưa ra được một chi tiết chân thực về tương "Tương
đẩ mổ hôĩ\ vừa có ý nghĩa sâu xa. Nhà thơ đã đem đến cho giọt
mồ hôi của tượng một ý nghĩa mới mẻ: thấm đẫm cảm xúc tâm
trạng con ngưòi. Ta hay nói "đau toát mồ hôi"; "đau đến không
khóc được". Những hình ảnh trên trong thơ Huy Cận đã diễn tả
được những nỗi đau tột cùng.
1 2 4